Thứ Năm, 4 tháng 7, 2013

Tiểu luận: Ảnh hưởng của thơ đường trong thơ Nguyễn Du và Hồ Chí Minh

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài       

Trên thế giới không có một nền văn hóa nào lại cô độc. Chúng ta thấy rằng, nền văn hóa ở mỗi nước đều chịu sự tác động của môi trường xung quanh. Văn học là một bộ phận của văn hóa nên cũng chịu ảnh hưởng qua lại. Phân tích một tác phẩm văn học trong tương quan so sánh với tác phẩm hay nền văn học, văn hóa khác là một cách để mở rộng bình diện nghiên cứu, thấy được những nét tương đồng, dị biệt, cái hay, cái đặc sắc và cả những hạn chế của cùng lúc hai đối tượng.
Từ lâu các nhà nghiên cứu đã thừa nhận mối quan hệ giao lưu, ảnh hưởng và tiếp biến văn hóa của hai dân tộc Việt – Trung. Ảnh hưởng của văn học Trung Quốc đối với nước ta là điều không thể phủ nhận, trong đó có tầm ảnh hưởng sâu đậm của thơ Đường mà thơ Đường Trung Quốc là đỉnh cao của thơ ca cổ điển Trung Quốc. Tìm hiểu ảnh hưởng của loại thơ này, một lần nữa chúng ta có cơ hội tiếp cận với một hình thức tinh hoa văn hóa nhân loại.
Nhắc đến văn học thời trung đại, chúng ta không thể không nhắc đến Nguyễn Du, và nhắc tới văn học hiện đại thì Hồ Chí Minh là một tác gia tiêu biểu. Ở họ, ta thấy rõ ảnh hưởng Đường thi. Chúng tôi chọn Truyện Kiều vì đây là kiệt tác của Nguyễn Du. Nếu đem ra so sánh, ảnh hưởng, thiết nghĩ, ta nên chọn tác phẩm này.
Bên cạnh đó, chúng tôi cũng chọn tập thơ Nhật ký trong tù để so sánh vì nó được viết bằng chữ Hán. Điều này không có gì là lạ. Sinh ra trong một gia đình nhà nho, được học chữ Hán từ nhỏ lại tiếp thu nền văn hóa chịu ảnh hưởng của Hán học, Hồ Chí Minh rất thông thạo chữ Hán. Hơn nữa, khi viết Nhật ký trong tù, Người đang bị giam cầm trong nhà tù Tưởng Giới Thạch ở Trung Quốc nên việc sử dụng chữ Hán, một thứ chữ hàm súc về ý nghĩa để sáng tác thơ là điều dễ hiểu. Trong Nhật ký trong tù, có lúc người phá cách diễn đạt thông thường của chữ Hán.
Vì thế, chúng tôi quyết định chọn đề tài “Ảnh hưởng của thơ Đường trong thơ Nguyễn Du và thơ Hồ Chí Minh”. Qua đó, chúng tôi muốn tìm hiểu sâu sắc sự ảnh hưởng cũng như sáng tạo của cha ông trong tiếp thu tinh hoa văn học nước ngoài nói chung và văn học Trung Quốc nói riêng, mà cụ thể ở đây là thơ Đường.
2. Lịch sử vấn đề
Đối với vấn đề này, đã có rất nhiều nhà nghiên cứu đề cập tìm hiểu một cách hết sức sâu rộng. Ví như Phan Ngọc và “Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều”, “Đặc điểm nghệ thuật thơ chũ Hán Nguyễn Du” của Lê Thu Yến… Nhưng chúng tôi đặc biệt chú ý đến các công trình nghiên cứu của GS. Trần Đình Sử. Trong cuốn Thi pháp Truyện Kiều đã nói: “Truyện Kiều là sản phẩm có bối cảnh văn hóa rộng lớn. Sự vay mượn và sáng tạo của Nguyễn Du nằm trong quỹ đạo của các kiểu sáng tác văn học và các nền văn hóa bao bọc xung quanh”. Mặt khác, ông có nhận xét về văn chương chữ Hán Việt Nam như sau: “Người Việt Nam hầu như đã di thực toàn bộ thể loại văn học của Trung Quốc vào Việt Nam với những quy mô và biến đổi khác nhau. Trước hết là các thể loại của sử học và các thể loại hành chính, sau đó là các thể loại thơ, phú và truyền kì, tiểu thuyết”. Trong mối quan hệ đó, Đường thi không thể không có ảnh hưởng đến văn học Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Chúng tôi tập trung nghiên cứu cá tính sáng tạo, phong cách sáng tác của hai thi hào Nguyễn Du và Hồ Chí Minh trong cái nhìn so sánh đối chiếu với thơ Đường. Chúng tôi xin giới hạn phạm vi nghiên cứu như sau:
 Ba tập thơ chữ Hán của Nguyễn Du (Thanh Hiên thi tập, Bắc hành tạp lục, Nam Trung tạp ngâm), Truyện Kiều, tập Đường thi tuyển dịch (1997), Nhật ký trong tù (2008).
  
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: GIỚI THUYẾT CHUNG
1.1. Khái niệm Đường thi
Khái niệm Đường thi có từ thời Đường (618 – 907) – một triều đại được coi là có nhiều chính sách tiến bộ nhất trong lịch sử phong kiến Trung Quốc. Khái niệm Đường thi vẫn là một khái niệm co dãn, có khi được chỉ tất cả các bài thơ được sáng tác vào đời Đường của Trung Quốc, có khi lại chỉ tất cả các bài thơ làm theo thể Đường luật. Cách hiểu thứ nhất, Đường thi được hiểu trùng với phạm vi của một triều đại. Cuốn toàn Đường thi đã sưu tập được 48900 bài thơ của hơn 2200 tác giả sống trong khoảng thời gian từ năm 618 đến năm 907, và được sáng tác trên 3 thể chính: Thơ luật Đường, thơ Cổ phong và Nhạc phủ. Theo cách phân chia này thơ đường được chia làm 4 giai đoạn: Sơ Đường (618 – 713), Thịnh Đường (713 – 766), Trung Đường (766 – 835), Vãn Đường (835 – 907). Nếu theo cách hiểu này, khái niệm Đường thi bị bó hẹp là thơ của một triều đại. Về cách hiểu thứ hai, có nghĩa là Đường thi trở thành một thể tài, có những nguyên tắc và chuẩn mực nhất định. Khái niệm Đường thi đồng nhất với khái niệm luật thi – một thể thơ mới ra đời vào thời Đường. Như vậy sẽ  không còn bó hẹp về không gian và thời gian, chỉ cần những sáng tác đảm bảo quy tắc của luật thi đều là thơ Đường. Nhận thấy rằng tất cả những sáng tác vào thời Đường, dù trực tiếp hay gián tiếp, dù ít hay nhiều đều bị ảnh hưởng bởi thơ Đường luật. Thời Đường có một sự vận động lớn trong thơ ca, mà luật thi là sản phẩm cao nhất của quá trình đó. Nên hiểu theo nghĩa phái sinh Đường thi là một thể loại thơ cũng là hợp lí.
1.2.  Đặc điểm của thơ Đường luật
Thơ Đường luật ra đời trên cơ sở những tiền đề về kinh tế, tư tưởng và văn học. Có thể nói chính sự pháp triển về kinh tế, sự tự do về học thuật tôn giáo và sự vận động không ngừng của hệ thống văn chương đã đem đến sự cường thịnh của văn học đời Đường. Hơn nữa triều Đường đã chú trọng phát triển chế độ khoa cử, quy định lấy thơ phú để chọn kẻ sĩ. Vì thế Nho sĩ bồi bổ tài văn chương, sáng tác thơ văn đủ niêm luật để ứng thí. Ngoài ra, thời kì này phong trào dịch thuật kinh Phật rất phát triển, các nhà dịch thuật dùng ngôn ngữ bạch thoại đương thời để dịch kinh phật từ tiếng Ấn Độ sang tiếng Trung Quốc, làm cho hệ thống ngôn ngữ phong phú đầy đủ hơn. Sự giàu có về ngôn ngữ đủ sức diễn đạt những ý vị sâu sa và những cấu tứ lạ lẫm trong thơ Đường.
Phong cốt và hứng kí là hai khái niệm dùng để diễn đạt đặc trưng về nội dung của thơ Đường luật. Phong cốt thơ  Đường lấy cứng cỏi mạnh mẽ của Hán Ngụy bỏ đị phong kí suy đồi thời Lục Triều. Có người nhận xét  phong cốt của Đường thi là “tinh thần lạc quan sẵn có của người đời Đường kết hợp với tính cách anh hùng trong văn học Kiến An và truyền thống tinh thần lí tưởng từ Khuất Nguyên trở đi”. Hứng kí nghĩa là tỉ hứng kí thác, thủ pháp của thi nhân dùng tỉ hứng để kí thác hoài bão chính trị của mình (gọi tắt là tỉ hứng). Hứng ký thơ Đường đã tiếp thu và thể hiện quan niệm “mĩ thích tỉ hứng” của truyền thống, coi trọng tác dụng phản ánh hiện thực cuộc sống, đặc biệt là nêu lên nỗi khổ và các giải thoát u phẫn trong lòng nhân dân. Tuy nhiên có sự đổi mới về phương thức thể hiện, vận dụng thủ pháp “trực trần kì sự” của thể phú nên lời thơ cứng cỏi sắc bén.
Thanh điệu và từ chương là yếu tố cấu thành về hình thức của Đường thi. Thanh luật Đường thi là sự kế thừa và phát triển hệ thống thanh luật của thơ ca thời Tề Lương. Theo những ghi chép trong “thơ ca bát bệnh” của Thẩm Ước ta thấy thơ ca thời Tề Lương chia thanh liệu thành 4 loại “bình, thượng, tứ, nhập” tuy chặt chẽ trong từng liên, từng câu nhưng trong lỏng lẻo giữa các liên, và có phần  rườm rà khó nhớ. Cách lưỡng phân thanh điệu thành bằng và trắc cùng với những quy định chặt chẽ về niêm luật tạo thành một phương thức quy phạm hóa tuy có phẩn ngặt nghèo nhưng lại thuận tiện trong học tập và nắm vững. Thơ Đường có sự biến hóa linh động trong tổ chức cú pháp. Sử dụng phổ biến hình thức đảo trang, tỉnh lược mất đi trật tự lôgic của tản văn, câu thơ trở nên cô đọng hàm xúc hơn. Ngôn ngữ Đường thi vừa chất thực vừa cứng cỏi, vừa thẳng thắn vừa sát thực. Nó mất đi dạng âm tiết tự nhiên cái gọi là ngôn ngữ đời thường, những hư từ không còn xuất hiện trong văn thơ nữa. Nó cũng không phải là ngôn ngũ bóng bẩy, trau truốt của thơ ca thời Nam Bắc Triều mà là ngôn ngữ tinh tế, được lựa chọn kĩ lưỡng hết sức tự nhiên chứ không hề sống sượng. Nói chung, trong thơ Đường ta thấy lại phong kí lãng mạn nhưng cũng giàu tính hiện thực của Kinh thi và Li Tao, có yếu tố trữ tình, tự sự của thơ ca thời Hán, Lục Triều, có sự phong phú về nội dung phản ánh và sự phát triển của thơ ca thời Ngụy Tấn. Sự dung hợp đầy đủ những yếu tố đó trong thơ ca của một thời đại là lí do thơ Đường được tôn vinh là di sản đặc sắc trong nền văn học trong nước và thế giới.
1.3.  Những tiền đề cho sự tiếp nhận Đường thi của Nguyễn Du và Hồ Chí Minh
1.3.1. Những tiền đề cho sự tiếp nhận Đường thi của Nguyễn Du
- Sự tương đồng về thời đại: Thời đại nhà Đường có nhiều cuộc chiến tranh phi nghĩa, những cuộc chiến tranh biên tái, khai biên, gây chiến dị tộc còn thời đại Nguyễn Du sống là thời kỳ chế độ phong kiến đã mục ruỗm, có nhiều cuộc nội chiến giành quyền lực giữa hai tập đoàn Trịnh - Nguyễn, các cuộc chiến tranh chống Xiêm La, Mãn Thanh.
- Nguyễn Du là một trí thức phong kiến, là người của “cửa Khổng sân Trình”.
- Bản thân Nguyễn Du đã từng công nhận ảnh hưởng của Đỗ Phủ đối với bản thân mình. Ông đọc thơ Đỗ Phủ cả đời “Bình sinh bội phục vị thường ly” (Trọn đời khâm phục, dám đơn sai – Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ),  đến cả trong đêm ngủ cũng thường mơ thấy Đỗ Phủ “Mộng hồn dạ nhập Thiếu Lăng thi” (Hồn thơ Đỗ Phủ mộng khuya đầy – Y nguyên vận ký Thanh Oai Ngõ Tứ Nguyên). Trong toàn bộ sáng tác của Nguyễn Du ta đều thấy phảng phất hơi thở của Đỗ Phủ.
1.3.2. Những tiền đề cho sự tiếp nhận Đường thi của Hồ Chí Minh
Tập thơ Nhật ký trong tù được viết bằng chữ Hán. Điều này không có gì là lạ. Sinh ra trong một gia đình nhà nho, được học chữ Hán từ nhỏ lại tiếp thu nền văn hóa chịu ảnh hưởng của Hán học, Hồ Chí Minh rất thông thạo chữ Hán. Hơn nữa, khi viết Nhật ký trong tù, Người đang bị giam cầm trong nhà tù Tưởng Giới Thạch ở Trung Quốc nên việc sử dụng chữ Hán, một thứ chữ hàm súc về ý nghĩa để sáng tác thơ là điều dễ hiểu.
 
CHƯƠNG 2: ẢNH HƯỞNG CỦA ĐƯỜNG THI ĐẾN SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN DU
Việt Nam và Trung Quốc, hai quốc gia được đánh giá là những  nước có nền văn hóa giàu bản sắc. Trong dòng chảy của lịch sử, chúng đã có những mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau, có ảnh hưởng tiếp xúc, qua lại lẫn nhau trên nhiều phương diện, trong đó có văn học. Quan hệ văn học Việt – Trung thời trung đại là sự thâm nhập của nền văn học Trung Hoa vào thế giới văn học Việt. Qua hàng ngàn năm Bắc thuộc, lịch sử đã chứng minh rằng: Hệ thống văn tự chữ Hán, lối sống, phong tục, tập quán của cư dân nông nghiệp lúa nước lưu vực các con sông lớn Trường Giang, Hoàng Hà, sông Hồng có những nét tương đồng. Thực tế đã cho thấy, văn hóa, văn học Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu đậm của nền văn hóa, văn học Trung Hoa trên nhiều phương diện như: thể loại, ngôn ngữ, đề tài, kết cấu, cảm hứng sáng tác, tư tưởng thẩm mỹ. Trong đó không thể không nhắc đến sự ảnh hưởng của thơ Đường đến văn học Việt Nam, đặc biệt là văn học trung đại. Nói đến văn học Việt Nam thời trung đại, ta thấy nổi bật lên là Nguyễn Du (1765 – 1820) – đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Ông đã để lại một di sản quý báu cho văn học nước nhà, trong đó có kiệt tác bất hủ là Truyện Kiều. Ngoài ra, Nguyễn Du còn có Thác lời trai Phường Nón, Văn tế sống hai cô Trường Lưu, Văn tế thập loại chúng sinh và ba tập thơ viết bằng chữ Hán, đó là Thanh Hiên thi tập, Bắc hành tạp lục, Nam trung tạp ngâm. Ba tập thơ này gắn liền với ba chặng đường sáng tác của Nguyễn Du. Thơ ông chịu ảnh hưởng của Đường thi, đặc biệt trong toàn bộ sáng tác của Nguyễn Du, ta đều thấy phảng phất hơi thơ của Đỗ Phủ. Nguyến Du và Đỗ Phủ sống ở hai thời đại cách xa nhau cả gàn năm, nhưng độc giả ngày nay vẫn nhận thấy trong thơ của hai đại thi hào có những nét tương đồng về chủ đề, nội dung, cảm hứng cũng như hình thức, thể loại. Vậy ảnh hưởng của Đường thi nói chung và Đỗ Phủ nói riêng đối với Nguyễn Du được thể hiện như thế nào trong thơ chữ Hán và chữ Nôm của ông?
2.1. Ảnh hưởng Đường thi đối với thơ chữ Hán của Nguyễn Du
2.1.1. Ảnh hưởng Đường thi đến thơ chữ Hán Nguyễn Du ở góc nhìn nội dung
Về mặt này Nguyễn Du có thể viết về nhiều đề tài nhưng dưới đây là những đề tài xuất hiện nhiều nhất. Sáng tác của Nguyễn Du có những nét ảnh hưởng từ thơ Đường, đặc biệt là Đỗ Phủ.
2.1.1.1. Hệ thống đề tài cơ bản
- Giống: Những nhà thơ Đường sử dụng đề tài hết sức rộng rãi, đề tài xã hội, thiên nhiên, lịch sử và cá nhân, đề tài về chiến tranh, đề tài về cuộc sống của những con người trong xã hội. Ngòi bút thi nhân đó luôn soi vào tất cả mọi nơi, xuống phố và chốn cung đình u ám cũng như vào giữa quần chúng nhân dân. Cũng như thế, đề tài trong thơ Nguyễn Du cũng bao hàm một phạm vi bao la rộng lớn.
- Khác: Ở Nguyễn Du, đề tài trải rộng. Từ sự suy vi của thế vận, sự biến thiên của núi sông cho đến những sự vật, hiện tượng bé nhỏ như: con sâu, con kiến, ngọn cỏ, nhành hoa.... Ông đưa cả những thứ tầm thường, nhỏ bé vào thơ mà theo thơ Đường nó không hợp với thể loại thơ cao quý này. Theo ông không có đề tài nào tầm thường mà chỉ có nhà thơ tầm thường. Những vật tầm thường nhất cũng là đề tài của thơ ca. Trong ông thường lấy một số đề tài chính sau:
a. Hoài cổ và vịnh sử
- Giống: Hoài cổ là một đề tài khá phổ biến trong thơ Đường, hầu như nhà nào cũng có bài viết về về nội dung này, những bài thơ đó gián tiếp bộc lộ nỗi buồn đau, lo lắng của thi nhân cho sự suy vong của thời thế, ca ngợi và luyến tiếc những nhân vật nổi danh trong quá khứ: Tống Ngọc, Minh Phi, Gia Cát... Đề tài hoài cổ vịnh sử tạo nên những bài thơ nổi tiếng như: Vịnh hoài cổ tích, Vũ Hầu miếu.. (Đỗ Phủ), Hoàng Hạc Lâu (Thôi Hiệu),  Tĩnh dạ tư (Lý Bạch)...
Đề tài hoài cổ có mặt và ẩn hiện hầu khắp các tập thơ chữ Hán của Nguyễn Du. Ông đau xót vì những giá trị tinh thần cũ đã bị đổi thay, đảo lộn trong những bài như: Vị Hoàng Doanh, Ninh Công thành, Pháo đài...  Ông luyến tiếc các sự kiện lịch sử và các triều đại lịch sử, cùng hình bóng Thăng Long dĩ vãng. Nỗi tiếc đó được thể hiện trong các bài:  Điếu La Thành ca giả, Long Thành cầm giả ca, Ngô gia đệ cựu ca cơ, Thăng Long, Ngẫu hứng, Mộng đắc thái liên...
Cổ kim vị kiếm thiên niên quốc,
Hình thế không lưu bách chiến danh
                  Vị Hoành Doanh
( Vương triều khó giữ vững nghìn đời,
Còn chăng trăm trận để người đời sau)
- Khác: Trong đề tài vịnh sử, ngoài việc viết về các sự kiện và nhân vật lịch sử của dân tộc, phần lớn Nguyễn Du viết về một loạt các nhân vật lịch sử Trung Quốc, nhân đi qua các di tích của họ. Trong Bắc hành tạp lục có 50 bài vịnh sử (trong tổng số 131 bài):  Tương Đàm điếu Tam Lư đại phu, Dự Nhượng chùy thủ hành, Sở Bá Vương mộ, Độ hoài hữu cảm Hoài Âm hầu tác,....
b. Đề tài chiến tranh loạn lạc
- Giống: Trong thơ Đường và thơ chữ Hán Nguyễn Du, ta thấy đều có những bài thơ viết về chiến tranh, thông qua đó thể hiện thái độ cảm thông, thương xót của các nhà thơ đối với số phận của nhân dân trong hoàn cảnh chiến tranh loạn lạc ấy.
- Khác: Thơ Đường thời kỳ này chủ yếu viết về các cuộc chiến tranh phi nghĩa, là những bài thơ biên tái, kể về các cuộc chiến tranh khai biên, gây chiến với dị tộc, đời sống nơi biên ải đọa đày: Binh xa hành, Viên lại Tân An, Viên lại huyện Thạch Hào...
Nguyễn Du cũng viết về chiến tranh, nhưng thời đại ông sống không có các cuộc chiến tranh khai biên, phi nghĩa như đời Đường mà chỉ là những cuộc nội chiến tranh dành quyền lực giữa hai tập đoàn Trịnh – Nguyễn và các cuộc khởi nghĩa nông dân nổi dậy chống sưu thuế, đòi quyền lợi cá nhân, đánh đổ chính quyền thối nát Trịnh- Nguyễn ở cả Đàng Trong và Đàng Ngoài và các cuộc chiến tranh chống bọn Xiêm La, Mãn Thanh. Cho nên thơ chữ Hán của Nguyễn Du không có các bài réo rắt não ruột như thơ Đỗ  Phủ, hay một số nhà thơ Đường khác. Ví như bài Thuật hoài.
Chiến tranh trên đất nước Việt Nam lúc này là các cuộc chiến tranh chính nghĩa, đòi tự do, cơm áo và hòa bình, phê phán hiện thực đen tối của xã hội phong kiến đương thời, đó là các cuộc chiến tranh, nội chiến, các cuộc khởi nghĩa nông dân. Chẳng hạn bài thơ Pháo đài trong Nam Trung tạp ngâm. Hay nhiều bài trong tập “Bắc hành tạp lục” của ông cũng nói về chiến tranh, chủ yếu là nói về phân tranh Trịnh - Nguyễn.
2.1.1.2. Giá trị nhân văn và giá trị hiện thực
a. Giá trị nhân văn
- Giống: Trong thơ Đường và thơ Nguyễn Du, ta thấy cũng có nhiều bài thơ thương cảm cho số phận con người, những thân phận nhỏ bé, một số nhà thơ đứng về phía dân đen nói lên tiếng  nói thống khổ của họ, nhìn thấy nỗi đau xót của mình trong nỗi khổ đau của nhân dân lao động, cái khổ không còn nằm trong lớp người mà nằm trong kiếp người. Ví như cái nhìn trong bài Bài hành vác củi  
                                                 Đất Quỳ Châu có cô đầu điểm tuyết,
                                                Bốn mươi năm chưa biết chuyện chồng con.
                                                Thời loạn ly càng không thể kết hôn,
                                                Suốt một kiếp giận hờn, than thở mãi.
                                                ( Đỗ Phủ)
Và bài Nắng dữ của Nguyễn Du tràn ngập tinh thần nhân đạo bao la.
- Khác: Đối tượng Nguyễn Du tả là số phận hẩm hiu của những con người dưới đáy xã hội, sự cơ cực của con người, của những kiếp người lầm than mà thơ Đường không đề cập tới. Ông thương một con ngựa già bị ruồng bỏ, một bông hoa lìa cành hay cái cái chết của người đào hát. Nhân vật trong thơ ông là một anh đẩy xe, một xác người chết đói, một ông già mù hát rong, mẹ con người hành khất. Ví dụ như Thái bình mại ca giả, Sở kiến hành,… Thơ chữ Hán của Nguyễn Du đã xóa đi sự cách biệt giữa các tầng lớp, đi xuống tận dân đen và nâng họ lên thành chủ nhân của xã hội. Những con người mà giai cấp thống trị xem là súc vật lại hiện lên trong đại thì hào mang đầy đủ ý thức về giá trị và nhân cách của mình.
2.1.1.2.2. Giá trị hiện thực
- Giống: Nhân dân trong nhiều bài thơ Đường khổ vì chiến tranh khai biên. Vua chúa vơ vét cho thỏa lòng tham, mặc cho nhân dân đau thương chết chóc. Chứng kiến cảnh đó nên thơ Đường vạch trần tội ác của bọn vua chúa, quan lại. Đối tượng mà họ châm biến là vua quan, cung phi, quân phiệt địa phương và bọn bồi bút vô liêm sỉ. Bên cạnh đó, các nhà thơ mong ước sao cho người dân có cơm ăn, áo mặc, con cái được học hành:
                                                Chờ triều đình sửa kỷ cương
                                                Kinh đô hy vọng có đường đổi thay
                                                                                    (Ở Quỳ Châu bộc lộ nỗi lòng)
            Trung thành với chủ nghĩa hiện thực, Nguyễn Du đã khắc họa một cách tinh tế và sinh động những mâu thuẫn xã hội không thể hòa hoãn nổi giữa hai thế lực đối lập. Một bên là những người nghèo khổ, tài sắc bị hắt hủi và bên kia là bọn giàu có, quyền thế. Sự giàu sang của bọn người quyền quý là nguyên nhân của sự sa cơ, chết chóc, thất bai của lớp lớp dân nghèo trong xã hội.
            Tinh thần hiện thực trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du và thơ Đường nói chung là cái nhìn nghiêm khắc đối với các sự kiện lịch sử, phán đoán chính xác và nhanh nhạy mọi vấn đề từ góc độ “dạ dày” của người lao động. Đó là tiếng nói chống áp bức, bất công, đòi hòa bình, cơm áo, có ảnh hưởng sâu rộng trong mọi tầng lớp nhân dân lúc bấy giờ.
- Khác: Hiện thực trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du là hiện thực vận động. Ông đánh giá nền văn hóa Trung Hoa từ cổ đại đến Đường, Tống. Các triều đại và quyền lực vua chúa đều trôi qua, điều còn lại duy nhất là con người và nhân văn. Ông coi trọng và đánh giá cao các nhân vật văn hóa, anh hùng hào kiệt của nền văn minh nhân loại, mà sao giờ đây khi đi qua các nơi ghi chiến công của các đế vương, khanh tướng, công hầu, ông chỉ thấy gai góc mọc đầy, gió lạnh hắt hiu:
                                                Hút mắt lòng đau nhìn chẳng thấy
                                                Gió thu lá rụng vượt Nguyên Tương!
                                                                        (Tương Đàm điếu Tam Lư đại phu 1)
            Ông mỉa mai những kẻ âm mưu hoặc trực tiếp đem quân xâm lược Việt Nam:
                                                Những tưởng cột đồng lòe gái Việt,
                                                Chẳng dè xe ngọc lụy đàn con
                                                                        (Giáp Thành Mã Phục Ba miếu)
            Hiện thực ở đây còn là những điều mắt thấy tai nghe, thông qua đó nhà văn giải bày tâm trạng. Ví như: Minh Giang chu phát, Thái Bình thành hạ văn xuy địch, Sơn Đường dạ bạc... Đặc biệt là Trở binh hành, Thái Bình mại giả ca, Sở kiến hành...
2.1.2. Ảnh hưởng Đường thi đến thơ chữ Hán Nguyễn Du ở góc nhìn nghệ thuật
2.1.2.1. Thể loại
            Thể loại là một phạm trụ thuộc hình thức của tác phẩm văn học, là phương tiện phù hợp với nội dung nên thể loại mang tính quy luật. Thể loại được hình thành và tồn tại trong quá trình phát triển của lịch sử văn học một cách tương đối ổn định. Đó là sự giống nhau về cách tổ chức tác phẩm, đặc điểm của các hiện tượng đời sống, tính chất của các mối quan hệ trong tác phẩm qua trình sáng tác của mình. Đường thi gồm các thể loại thơ thuộc hai nhóm là Cổ thể và Kim Thể. Cổ thể gồm Cổ Phong và Nhạc phủ. Kim thể  (hay Cận thể) gồm Luật thi và Tứ tuyệt.
            Khi phân loại người ta chia làm sáu thể: Ngũ ngôn cổ thể, Thất ngôn cổ thể, Ngũ ngôn luật thi, Thất ngôn luật thi, Ngũ ngôn tuyệt cú, Thất ngôn tuyệt cú. Trong đó, Ngũ ngôn cổ thể và Thất ngôn cổ thể gọi là thơ Cổ Thể, còn bốn thể sau gọi là Kim (cận) thể. Nguyễn Du đã sử dụng các thể thơ thuộc hai nhóm là Cổ Thể và Kim thể.
a. Thơ Cổ thể
            Thơ Cổ thể là loại thơ không có luật nhất định, không hạn định số câu, số chữ trong bài, thường là có năm đến bảy chữ nhưng cũng có khi giao động, co giãn xung quanh năm đến bảy chữ đó. Cách giao vần thì rất linh hoạt, có khi cả bài thì chỉ có một vần (độc vần) như bài Tái du Tam Điệp sơn:
                                                Vân thế sơn Tam Điệp
                                                Thiên nhai khách tái du
                                                Nhân trung thu đại địa,
                                                Hải ngoại kiến ngư chu.
                                                Trướng tĩnh phong loan sấm,
                                                Thiên hàn thảo mộc thu.
                                                Hành nhân hồi khán xứ,
                                                Vô ná cố hương sầu.
            Trong các tập thơ của Nguyễn Du cũng có nhiều bài thơ được làm theo thể thơ này. Chẳng hạn trong tập “Bắc hành tạp lục” có 8 bài thất ngôn cổ thể, ngủ ngôn cổ thể, 18 bài trường thiên (thất ngôn, ngũ ngôn, đoản cú). Ví dụ: Long thành cầm giả ca, sở kiến hành...
b. Kim thể
 Toàn Đường thi gồm 48.900 bài thơ thì phần lớn được làm theo thể loại này. Đây là thể thơ phù hợp với việc thể hiện tâm tình con người, cũng như sự tương giao giữa ngoại cảnh và nội tâm, con người và thế giới. Nguyễn Du rất thành công ở thể thơ này, bởi nó đề cập được nhiều vấn đề về nhân sinh thế thái, thế sự, cuộc sống sinh hoạt cá nhân, tình cảm mãnh liệt và cả những tâm sự u buồn. Trong tập Bắc hành tạp lục có 76 bài thất ngôn bát cú, 11 bài ngũ ngôn bát cú, 18 bài thất ngôn tứ tuyệt. Ví dụ: Tự thán, Đồng Lung giang, Đêm nằm ở Mạc Phủ, Quỳnh Hải nguyên tiêu, Khúc giang 1...
            Thơ Cổ thể và Kim thể trong sáng tác của Nguyễn Du chủ yếu là thể hiện tình cảm của con người vũ trụ. Khi chú trọng phản ánh hiện thực thì Đỗ Phủ và Nguyễn Du sử dụng thơ cổ thể với những cảm xúc mạnh mẽ và phong phú. Thơ luật lại thiên về việc thể hiện những cảm xúc, tâm tình lắng đọng, trầm tư mà sâu lắng. Sỡ dĩ có điều đó là vì thơ cổ thể có dung lượng lớn, thể cách không chặt chẽ nên có thể đi sâu khám phá những diến biến phức tạp của cuộc sống đời thường, để phản anh nó một cách chính xác và đa dạng như chính bản thân cuộc sống. Còn Luật thi là sản phẩm của tư duy nghệ thuật, nên rất phù hợp với việc thể hiện tâm tình của con người vũ trụ, có khát khao hòa mình vào thế giới. Mỗi bài thơ là một cơ thể sống bởi nó có những mối quan hệ nội tại nhất định, tác giải thổi tâm hôn mình vào đó và khơi lên ở người đọc một trạng thái tình cảm tương ứng với lòng mình. Đó là sự giao thoa giữa con người và thế giới để con người hòa nhập tâm hồn mình, cho nên Luật thi vẫn chiếm đa số trong thơ thi hào.
2.1.2.2. Thi tứ
            Thi tứ là hạt nhân kết cấu của hình tượng thơ. Nó là hạt nhân trung tâm của quá trình sáng tác nên nó chi phối tất cả các yếu tố khác, nó mang đến cho bài thơ một linh hồn, một trật tự để mỗi bài thơ là một nỗi niềm rung động được phô diễn ra bằng phương tiện ngôn từ. Thi tứ hay còn gọi là tứ thơ cũng chính là một tư tưởng đã bão hòa cảm xúc, tồn hiện dưới dạng hình tượng nhất định.
Về mặt thi tứ Nguyễn Du chịu ảnh hưởng nhiều nhất từ Đỗ Phủ, có lẽ do sự tương đồng về cuộc đời, thời đại, tư tưởng... Thơ chữ Hán của Nguyễn Du cũng như thơ Đường, nhìn trên tổng thể thì mỗi bài có một tứ thơ độc đáo, ít lặp lại, nhưng xét trên toàn bộ sự nghiệp sáng tác thì thấy nổi lên một số dạng tứ thơ như sau:
a. Tứ thơ tỏ chí – hoài cổ
- Tứ thơ phổ biến của loại thơ này được Nguyễn Du và Đỗ Phủ khai triển dựa trên sự đối lập nhưng đồng nhất giữa nhân vật trữ tình với các đại lượng lớn của vụ trụ như: sông, núi, mấy, nước, xưa, nay, sau, trước. Trong mối tương quan ấy con người như được phóng to lên để có khả năng giao cảm với đất trời.
- Tỏ chí trong thơ Nguyễn Du là sự bế tắc, cô đơn, bất lực với đồi và tìm mối giao cảm với trời:
                                                            Non cao nước chảy còn đâu nhỉ?
                                                            Góc biển chân mây gặp dễ gì.
                                                            Vành nguyệt trời nam xin để lại,
                                                            Soi đôi lòng mãi lúc đêm về.
                                                                                    (Lưu biệt Nguyễn Đại Lang)
            Bài Con cô nhạn của Đỗ Phủ cũng là tinh cảnh cô đơn, bế tắc của kẻ lạc loài:
                                                            Nhạn lạc không ăn uống,
                                                            Bay kêu tiếng nhớ đàn.
                                                            Ai thương người chiếc bóng,
                                                            Mất hút giữa mây ngàn.
                                                            Mòn trông còn thấp thoáng,
                                                            Xót lắm tiếng mơ màng.
                                                            Quạ đồng sao hiểu được,
                                                            Quàng quạc tiếng kêu than.
            Vì cô đơn, bế tắc và buồn đau nên thi nhân thường hay hoài cổ, hoài cổ để tìm sự an ủi cho cõi lòng mình, đi ngược dòng quá khứ tìm về một thời huy hoàng đã qua đi. Điều này thể hiện rõ hơn cả là trong thơ Nguyễn Du:
                                                            Vị Giang doanh có Vị Hoàng,
                                                            Trời xanh cây lá liền hàng nhấp nhô.
                                                            Chiều tà ngựa uống bến xưa,
                                                            Đồng hoang, đêm vắng đóm ra loạn trời.
                                                            Vương triều khó vững nghìn đời,
                                                            Còn chăng trăm trận để người ngày sau.
                                                            Xóm phù hoa chẳng nhìn đâu,
                                                            Xanh xanh Tam Điệp một màu chẳng phai.
                                                                                                            Vị Hoàng doanh
- Hoài cổ trong thơ Đỗ Phủ là những bài thơ mang nặng nỗi đau đời, ca ngợi các bậc anh tài, quân vương trong quá khứ nhưng cũng đồng thời nhìn thẳng vào cuộc sống khổ cực cả nhân dân lao động, lo cho vận mệnh của quốc gia, dân tộc qua những việc quốc gia, đại sự nên thơ Đỗ Phủ có sự kết hợp tuyệt với giữa nghệ thuật và chính trị, thể hiện lòng yêu nước sâu sắc:
                                                            Gió gấp trời cao vượn nỉ non,
                                                            Bến trong cát trắng lượn chim cồn.
                                                            Rào rào lá trút rừng cây thẳm,
                                                            Cuộn cuộn sông về sóng nước tuôn.
                                                            Thu quạnh nghìn khơi lòng khách não,
                                                            Đài cao trăm bệnh chiếc thân mòn
                                                            Gian nan khổ hận đầu thêm bạc,
                                                                                                            (Đăng Lâu)
b. Tứ thơ về tâm trạng buồn bã, cô độc
- Buồn cho đời người ngắn ngủi, bế tắc, mất phương hướng, buồn cho thời đại nhố nhăng, loạn lạc, buồn vì tình người, tình đời ngang trái, dối gian. Thơ chữ Hán của Nguyễn Du và Đỗ Phủ đã thấm đẫm một nỗi buồn đau tê tái – Một mùa thu rất dài không có ánh nắng và màu mây. Mùa thu vốn dĩ đã buồn của lá vàng rôi và gió thu hiu hắt, của khuôn mặt tư lự, không còn đứng ở vị trí độc lập mà chen chân vào, quan sát và miêu tả, để thực hiện và nỗi lòng đau:
                                                            Tráng sĩ bạc đầu ngửa mặt than:
                                                            Hùng Tâm, Sinh Kế, mộng đều tan,
                                                            Xuân Lan, Thu Cúc thôi trò hão,
                                                            Đông rét, hè thiêu, cướp tuổi xuân..
                                                                                                            (Tạp thi)
            Mùa thu đối với Đỗ Phủ là một nỗi niềm xót xa trước cảnh thu bi thương, hoành tráng nhưng cũng đầy ắp âm thanh của cuộc sống đời thường:
                                                            Lác đác rừng phong hạt móc sa,
                                                            Ngàn non hiu hắt khí thu lòa.
                                                            Lưng trời sóng gợn lòng sâu thẳm,
                                                            Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
                                                            Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ,
                                                            Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.
                                                                                                            (Thu hứng 1)
- Tứ thơ buồn bã, cô độc bàng bạc hầu khắp thi phẩm của hai thi hào Nguyễn Du và Đỗ Phủ, là nỗi buồn đau, vất vả,  đắng cay của cuộc sống đời thường, bởi hai ông cứ theo mãi để đi tìm “ mình” một cách mải miết nhưng hình như càng đi thì càng vô vọng, bế tắc, quẩn quanh.
            Tóm lại, Thơ chữ Hán Nguyễn Du có một vị trí quan trọng trong lịch sử văn học quốc gia, dân tộc, nói riêng trong nền văn học trung đại thế giới nói chung. Mặt khác, chọn việc nghiên cứu so sánh thơ Đường và thơ chữ Hán của Nguyễn Du, chúng tôi còn muốn tìm ra những nét ảnh hưởng cũng như sáng tạo nhằm góp phần chứng minh mối quan hệ, giao lưu về văn hóa, văn học của hai quốc gia Việt Nam và Trung Quốc.
2.2. Ảnh hưởng của thơ Đường vào thơ Nôm của Nguyễn Du (tiêu biểu là Truyện Kiều)
2.2.1 Nội dung
2.2.1.1. Hệ tư tưởng Nho, Phật, Lão giáo trong Truyện Kiều
a. Triết lí nhân sinh
a1. Tài mệnh tương đố

- Giống: Tài mệnh ghét nhau mà Nguyễn Du nói là dịch từ cổ ngữ của Trung Quốc “Tài mệnh tương đố”. Tài là năng lực vốn có của con người. Mệnh có nguồn gốc Nho giáo. Nho giáo cho rằng, mỗi người sinh ra đều có mạng số, cái phúc phần mà trời ban gọi là thiên mệnh. Mệnh là cái phần số của con người được quy định ở giới tối cao không thể thay đổi, Nho giáo gọi là định mệnh. Như vậy, mệnh có thể là phần phúc cũng có thể là bất hạnh.
- Khác: Cũng bàn về chữ “mệnh” nhưng chữ “mệnh” mà Nguyễn Du sử dụng chỉ giới hạn ở nghĩa là cái phần phúc mà con người được hưởng. Ở xã hội phong kiến suy vi thối nát thời Nguyễn Du, thuyết tài mệnh tương đố như là một chân lí. Con người tin tưởng nó với một thái độ bất mãn và bất lực trước cuộc đời.
Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.
Nguyễn Du đã cụ thể hoá cái thuyết bù trừ của Lão Tử thành tài mệnh tương đố. Tuy nhiên với Lão giáo, tạo hoá bù trừ chỉ là một triết lí rút ra từ sự suy nghiệm cuộc sống, từ sự thông đời hiểu thế của một triết gia. Còn với Truyện Kiều, tài mệnh tương đố như một học thuyết mà Nguyễn Du cần phải chứng minh.
Cuộc đời Thuý Kiều là một minh chứng cụ thể sinh động cho thuyết ấy. Đó không chỉ là tài mệnh tương đố mà còn hồng nhan bạc phận, là sự ganh ghét của tạo hoá. Tạo hoá ganh với sắc đẹp của nàng, vì nàng có “làn thu thuỷ, nét xuân sơn” cho nên “hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”. Còn với cái tài của nàng thì:
Thông minh pha sẵn tư trời,
Pha nghề thi hoạ, đủ mùi ca ngâm.
Cung, thương, làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt cầm một trương.
Nhưng trong cái tài ấy thì lại chất chứa “Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”. Dường như với Nguyễn Du, tài hoa – bạc mệnh là hai mặt của một trang giấy, nó không tách rời nhau. Cho nên, ông thường viết những câu:
Rằng: Hồng nhan tự thuở xưa,
Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu.
Thế mới biết, nếu Lão Tử dùng thuyết tạo hóa bù trừ để an ủi những tâm hồn đau khổ từng chịu những bất công thì Nguyễn Du cụ thể hoá cái thuyết bù trừ ấy thành “hồng nhan bạc mệnh”, “tài mệnh tương đố” để gợi lên lòng trắc ẩn, nỗi thông cảm ở con người và phê phán những bất công trong xã hội.
Chính vì thế, ta có thể kết luận rằng, nhìn ở góc độ nào đó thuyết tài mệnh tương đố, hồng nhan bạc phận mà Nguyễn Du nêu ra là xuất phát từ thuyết tạo hoá bù trừ, âm dương biến đổi của Lão giáo nhưng Nguyễn Du đã cảm nhận và giải thích nó bằng quan niệm rất riêng. Nhà thơ đã nhận ra cuộc đời là thế. Cuộc đời là sự tranh quyền đoạt thế, lòng ích kỉ của con người làm cho họ sẵn sàng hãm hại nhau, mà người có tài luôn là cái gai trong mắt của những kẻ tiểu nhân. Một xã hội phản động luôn tìm cách loại trừ những bậc tài năng. Nghĩa là, nếu Lão Tử xem những bất công ở đời là một quy luật thì Nguyễn Du xem hồng nhan bạc phận, tài mệnh tương đố là một tai hoạ mà nạn nhân thường là người phụ nữ. Đó là giá trị nhân đạo của tác phẩm.
a2. Định mệnh
- Giống: Ở khía cạnh nhất định, các tác gia thời Đường và Nguyễn Du đều lý giải các vấn đề trong tác phẩm của mình bằng thuyết định mệnh của Nho gia. Đây cũng là một học thuyết bất công mà con người tỏ ra bất lực:
Bắt phong trần phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần thanh cao.
Nếu đi tìm tư tưởng định mệnh ở Nguyễn Du thì không đâu bằng tìm ở Truyện Kiều. Như đã nói thuyết “tài mệnh tương đố” không bao trùm hết số phận các nhân vật trong Truyện Kiều. Thế giới của Truyện Kiều là thế giới của những con người có tài: tài hoa, tài trí dũng, tài trí xảo. Nhưng không phải ai có tài cũng đều bất hạnh, như: Kim Trọng, đại thần Hồ Tôn Hiến, Vương Quan, Thuý Vân đều là những kẻ có tài, người có sắc nhưng số phận không nghiệt ngã đối với họ. Nguyễn Du đã lí giải điều này dựa trên thuyết định mệnh của Nho gia.
Như ta biết, ảnh hưởng tư tưởng định mệnh trong Truyện Kiều còn rất mạnh. Và dường như với quan niệm Nguyễn Du, phụ nữ là người chịu sự áp đặt khắt khe nhất của định mệnh:
Đau đớn thay phận đàn bà,
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
Từ Đạm Tiên đến Thuý Kiều và cả Thuý Vân cũng chịu sự chi phối của định mệnh. Nhưng khác nhau là Đạm Tiên và Thuý Vân là những người thuận theo mệnh mà sống, còn Thuý Kiều là người luôn chống lại định mệnh.
Định mệnh được Nguyễn Du đưa ra nhằm nói lên sự bất lực của con người cá nhân trong xã hội phong kiến, tố cáo sự tàn nhẫn của xã hội đối với hạnh phúc của con người. Đó là giá trị hiện thực của tác phẩm.
- Khác: Xét thái độ của Nguyễn Du đối với tư tưởng định mệnh thì lại thấy ông rất mâu thuẫn. Lúc thì ông cho rằng mọi việc trời định sẵn, con người chỉ việc tuân theo, lúc thì lại bảo rằng con người không hoàn toàn bất lực trước số mệnh vì “có trời mà cũng có ta”, trời quyết định cuộc đời ta, nhưng ta cũng quyết định không ít đến số mệnh của mình. Dù số trời bắt ta bạc mệnh nhưng ta cố hành thiện giúp đời trời sẽ mang lại phúc lành đến cho ta. Như vậy, định mệnh mà Nguyễn Du nêu ra không phải là quy luật bất biến như trong tư tưởng Nho gia mà nó đã chịu sự ảnh hưởng của thuyết nhân quả nhà Phật. Tuy nhiên, định mệnh là hạn chế trong tư tưởng Nho gia cũng là hạn chế trong tư tưởng Truyện Kiều.
a3. Luật nhân quả – triết lý về sự công bằng của nhà Phật
- Giống: Các nhà thơ Đường có sự vận dụng tư tưởng này trong sáng tác của mình. Nghiệp theo nhà Phật là những việc làm trước kết thành cái quả sau, nghiệp tương đương với chữ nhân trong nhân quả. Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng đã vận dụng cái thuyết này để giải thích toàn bộ cuộc đời vui khổ của nàng Kiều. Nguyễn Du đã giải thích được tại sao Kiều lại phải chịu cảnh “hồng nhan bạc mệnh”. Như đã nói, đó là do định mệnh. Nhưng định mệnh chỉ nêu lên kết quả mà không giải thích được nguyên nhân của điều bạc mệnh kia là do đâu. Nguyễn Du đã bổ khuyết vấn đề này bằng thuyết nhân quả, nghiệp báo của nhà Phật. Căn cứ vào đấy, ông giải thích nỗi khổ của Kiều là do chính Kiều:
Đã mang lấy nghiệp vào thân,
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa.
Thế nên, kiếp sống của Kiều là để trả cái nghiệp nàng gây lúc trước. Vì cái nghiệp nó quấn chặt Kiều nên phải chịu muôn vàn cay đắng, như Kiều không làm lẽ mà rơi vào nhà chứa, bị Sở Khanh lừa nên phải tiếp khách làng chơi, ngỡ được hạnh phúc bên Thúc Sinh thì lại bị Hoạn Thư hành hạ, ngỡ được vinh quang cùng Từ Hải thì lại mang tiếng giết chồng. Đúng là cái nghiệp đã làm cho Kiều gặp “hết nạn nọ đến nạn kia”.
- Khác: Ý nghĩa của nó không chỉ dừng lại ở đây. Khi đem luật quả báo luân hồi vào Truyện Kiều, Nguyễn Du còn nhằm khẳng định sự công bằng tuyệt đối của thuyết nhân quả, đồng thời nói lên ước mơ về xã hội công bằng, công lý của con người thời bấy giờ.
Ở Truyện Kiều, lời thề luôn có sự ứng báo. Cuối cùng, chúng cũng bị trừng phạt, sự trừng phạt đó chính là quả báo mà họ tự gây nên. Cho nên, ở đoạn Kiều đền ân, báo oán, ta không hề thấy cái lòng oán hận nào của Kiều mà chỉ thấy đó là luật công bằng của tạo hoá. Sự trừng phạt kia chỉ là do ở đạo Trời:
Đạo Trời báo phục chỉn ghê,
Khéo thay một mẻ, tóm về đầy nơi!
Đúng là “lưới trời lồng lộng tuy thưa mà khó lọt”. Con người không thể dối trời hại nhân.Thế nên, trong Truyện Kiều đoạn đền ân báo oán diễn ra là tất yếu.
Từ cái thuyết nghiệp báo này, Nguyễn Du khuyên con người nên phấn đấu làm việc thiện, hãy vững tin rằng “qua cơn bỉ cực đến hồi thái lai”. Và để có được một sự bình yên tuyệt đối trong cuộc sống, con người phải biết tu tâm. Theo Nguyễn Du, hành thiện chỉ đem đến cho con người sự tốt lành trong cuộc sống, nhưng cái tâm ta không tịnh ta cũng sẽ mãi khổ đau.
a4. Tu tâm – Triết lý về con đường giải thoát
Tư tưởng này gần với lối sống vô vi, ẩn dật của triết lí Lão – Trang. Ông cho rằng con người có thể tìm được hạnh phúc ngay ở cuộc sống đời thường với điều kiện là chúng ta phải biết tu tâm. Triết lí sống này gần với tư tưởng Nho, Phật hơn. Giữa cái xã hội thế này, con người dù tài năng đến đâu cũng chỉ là “con cờ” của xã hội, người có tài sắc là món hàng đắt giá của bọn bất lương. Cho nên, Nguyễn Du đã kết luận rằng: “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”.
Đề cao chữ tâm giữa lúc thiết chế xã hội đầy rẫy lầu xanh như một “thiên la địa võng” cứ chực chờ giăng bẫy hạnh phúc của con người ông hy vọng nó sẽ mang lại một giá trị nhân sinh. Đó là triết lí về con đường con đường giải thoát – tu tâm.
Và cái nghiệp ấy so với công đức của nàng thì công đức ấy còn nhiều:
Lấy tình thâm trả nghĩa thâm,
Bán mình đã động hiếu tâm đến trời!
Hại một người cứu muôn người
Biết đường khinh trọng, biết lời phải chăng.
Tất cả điều này đã giải trừ nghiệp chướng của nàng. Nhờ tâm giữ giới, tâm hiếu nghĩa, tâm từ bi mà thiện nghiệp được tạo ra, nhờ thế Kiều mới có cảnh đoàn viên, sum vầy với gia đình và Kim Trọng.
Trải qua 15 năm lưu lạc, chứng kiến với bao sự đời, tiếp xúc với bao hạng người, Kiều cũng chỉ nhận ra một triết lý “ở hiền gặp lành” hay “tích thiện phùng thiện, tích ác phùng ác”, gieo nhân gì thì gặt quả ấy. Kiều mới giác ngộ được nỗi khổ là do ngoại giới gây nên chứ chưa thật sự tin rằng một phần là do tâm của mỗi con người.
b. Luân lý đạo đức
b1. Hiếu
Trong xã hội phong kiến cũng như trong học thuyết Nho giáo, Phật giáo, chữ hiếu rất được coi trọng, Nho giáo cho rằng: “Nết hiếu là điều trước tiên của trăm nết, nết hiếu thấu đến trời thì gió mưa thuận mùa, nết hiếu thấu đến đất thì muôn vật thịnh tốt, nết hiếu thấu đến người thì mọi phước đều đem lại”.
Cho nên, người có hiếu nghĩa rất được mọi người tôn trọng. Với Truyện Kiều thì vấn đề này không cần phải tranh luận. Kiều là người luôn đặt chữ hiếu lên hàng đầu. Dù Kiều rất đỗi yêu Kim Trọng, Kiều có thể thề nguyền cùng Kim Trọng nhưng Kiều cũng không phải là người tự quyết định hôn nhân của mình. Kiều cho rằng yêu là quyền của mình nhưng quyết định hôn nhân là quyền của cha mẹ:
Dù khi lá thắm chỉ hồng,
Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha.
Kiều đã không thể trọng tình khinh hiếu. Cho nên, khi xảy ra gia biến Kiều đã quyết định dứt tình, bán thân để chuộc cha và em
Nàng đã nêu cao gương hiếu nghĩa. Nhưng không vì thế mà nàng trở thành một biểu tượng của đạo đức, nghĩa là Kiều không phải là nhân vật hoàn toàn được miêu tả bằng bút pháp lãng mạn. Kiều cũng như bao người trước ngã ba đường lựa chọn nàng cũng băn khoăn, dằn vặt. Nhưng vì “Đau lòng tử biệt sinh ly” nên “Thân còn chẳng tiếc, tiếc gì đến duyên”.
b2. Trung
Ở xã hội phong kiến, trong chế độ quân chủ chuyên chế, chữ trung được đề cao tuyệt đối, “quân xử thần tử, thần bất tử bất trung”. Đó là tư tưởng “ngu trung” nhưng lại là tiêu chuẩn tạo nên mẫu người quân tử thời phong kiến.
Chữ trung trong Truyện Kiều là chữ trung tuyệt đối. Kiều là người rất mực trung thành với triều đình. Chính Kiều thừa nhận rằng Từ tuy  là “đấng anh hùng” nhưng hành động dấy binh khởi nghĩa là hành động của “tên giặc cỏ”. Hành động ấy chỉ đem lại sự khiếp sợ cho nhân dân, bởi cuộc hành quân của họ:
Ngất trời sát khí mơ màng
Đầy sông kình ngạc, chật đàng giáp binh.
Trong ý thức, Kiều không xem hành động của Từ là một điều tốt đẹp vì chỉ đem đến chết chóc.
Vị vua mà Kiều tôn thờ là một vị minh quân, luôn ban bố ân đức, chăm lo hạnh phúc cho nhân dân nên Kiều trung thành với vua là tất yếu. Và Kiều cũng không thẹn lắm trong hành động gián tiếp hại chết Từ Hải khi thốt câu: “Xét mình công ít tội nhiều”.
Cho nên, với cái chết của Từ Hải, Kiều không những là người vô tội mà còn lập được công.  Cái công ở đây là công “cứu muôn người” thoát khỏi nạn binh đao. Chữ trung có thể tìm thấy ở Truyện Kiều, cũng như trong tư tưởng Nguyễn Du. Trung là sự trung thành tuyệt đối của nhân dân đối với minh quân. Điều này cho ta suy nghĩ ngược lại, nếu vua không đứng về phía nhân dân, không đem lại lợi ích cho dân thì sớm muộn gì cũng bị lật đổ. Vì vậy, chữ trung ở Truyện Kiều cũng như  trong tư  tưởng Nguyễn Du đã  ngã  ngũ  nhiều về tính nhân dân, tính quần chúng. Đó là tư tưởng tiến bộ của Nguyễn Du và cũng có thể là kết quả mà ông thu được sau những năm sống lưu lạc trong quần chúng.
b3. Nhân nghĩa
Đây là vấn đề không cần phải nói nhiều trong Truyện Kiều. Những nhân vật chính diện thì toàn xử sự theo nhân, theo nghĩa. Chung Ông giúp gia đình Kiều chạy vạy, lo chuộc Vương Ông và Vương Quan, đó là nhân. Sau khi Vương Quan thi đỗ đã cưới con của Chung Ông để trả ơn, đó là nghĩa. Những thế lực giúp Kiều toàn là những con người nhân nghĩa. Còn Thuý Kiều là một hiển  nhiên. Kiều là người luôn nghĩ cho người khác trước khi lo cho bản thân mình. Lo lắng cho cha mẹ, các em đã đành, Kiều còn luôn quan tâm đến những ai có ân với mình.
b4. Tiết hạnh
- Giống: Thơ Đường và Truyện Kiều đều đưa chữ “tiết” vào tác phẩm của mình.
- Khác: Chữ “trinh” trong thơ Đường rất nghiêm ngặt, cứng rắn. Còn Nguyễn Du thì không, tư tưởng ông rất phóng khoáng. Người phụ nữ vẫn có quyền yêu và tìm đến người mình yêu. Đó là tính nhân văn trong Truyện Kiều. Nhưng người phương Đông cũng không chấp nhận thái độ dễ dãi trong tình yêu. Chính Kiều cũng thừa nhận điều đó:
Đã cho vào bậc bố kinh,
Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu.
Còn việc nàng ép lòng theo Sở Khanh chỉ vì nàng muốn thoát khỏi chốn thanh lâu mà thôi. Đến việc đánh cắp chuông vàng khánh bạc, nói dối Giác Duyên, hầu rượu Hồ Tôn Hiến… tất cả là do “ngộ biến tùng quyền”, tuỳ thời mà ứng phó.
Thật khó mà đánh giá tiết hạnh nàng Kiều. Nhưng ta phải đánh giá thế nào về chữ “trinh” của Kiều đây? Kiều đã lưu lạc mười lăm năm “thanh y hai lượt, thanh lâu hai lần”, đã từng làm lẽ Mã Giám Sinh, Thúc Sinh, làm vợ Từ Hải, viên thổ quan. Vậy mà khi gặp lại Kim Trọng, nàng bảo:
Chữ trinh còn một chút này,
Chẳng cầm cho vững lại giày cho tan!
Thực ra, chữ “trinh” mà Kiều nói không phải nghĩa là sự trắng trong về thân xác, cũng không phải là sự trắng trong về tinh thần. Về thân xác thì rõ rồi. Về tinh thần thì dẫu không yêu ai ngoài Kim Trọng nhưng tình nghĩa ái ân với Thúc Sinh, Từ Hải, Kiều cũng tự thấy mình không còn xứng đáng được gọi là trung trinh. Vì thế chữ “trinh” của Kiều phải được hiểu theo nghĩa khác. Quan niệm của Nguyễn Du về chữ trinh không cực đoan:
Xưa nay trong đạo đàn bà,
Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường.
Có khi biến, có khi thường,
Có quyền, nào phải một đường chấp kinh.
Như nàng lấy hiếu làm trinh,
Bụi nào cho đục được mình ấy vay?
Với Nguyễn Du, chữ trinh còn là nét đẹp trong phẩm chất, tâm hồn con người. Nguyễn Du đã đóng vai người bạn đường theo dõi và đồng tình với Kiều trong suốt quãng đường đời  của Kiều chứ không phải là nhà khoác áo đạo đức để đi biện hộ cho tiết hạnh nàng Kiều. Chính vì thế, Kiều giành được sự cảm thông của người đọc bằng chính những ứng xử phù hợp của nàng trong từng hoàn cảnh chứ không phải chỉ vì Kiều nêu cao gương tiết hạnh.
2.2.1.2. Tính hiện thực và nhân đạo
- Giống: Trong phần tìm hiểu về ảnh hưởng của thơ Đường đến thơ chữ hán của Nguyễn Du, ta cũng đã thấy tính hiện thực và nhân đạo trong thơ Đường. Còn trong Truyện Kiều giá trị hiện thực và nhân đạo cũng được hiện rõ rất. Truyện Kiều được đánh giá cao trước hết ở giá trị hiện thực sâu sắc. Ngòi bút sắc sảo của nhà thơ đã miêu tả bộ mặt xã hội với những nhân vật điển hình, có diện mạo và bản chất riêng, có sức sống mãnh liệt, có sức tố cáo mạnh mẽ, có chiều sâu lịch sử và có tính thời sự đối với mọi thời đại. – -  - Khác:
+ Thơ Đường: Hiện thực được phô bày chỉ là hình thức. Đó là hiện thực của gia đoạn, xã hội.
+ Nguyễn Du: Truyện Kiều cụ thể hóa nỗi khổ của Kiều. Với Truyện Kiều, bên cạnh tiếng kêu thương đòi quyền sống cho con người, Nguyễn Du đã phơi bày bộ mặt xấu xa tàn bạo của xã hội phong kiến Việt Nam đương thời và nói lên hiện thực cô độc, mong manh của những kẻ tài sắc.
 Bộ mặt xấu xa, tàn bạo của xã hội phong kiến Việt Nam đương thời, đầu tiên phải kể đến là thế lực quan lại. Nhắc đến cuộc đời Kiều chúng ta nghĩ đến kiếp nạn “thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần” nhưng còn một nơi mà người con gái đáng thương, tội nghiệp ấy đã hơn một lần phải tới và trở thành nạn nhân, đó là cửa quan. Không ở đâu thế giới quan lại hiện lên sinh động, chân thực, đa dạng như trong tác phẩm Truyện Kiều. Đó là những kẻ đại diện cho bộ máy chính quyền phong kiến, những kẻ được xem là cha mẹ dân, có kẻ chịu trách nhiệm cầm cân nảy mực nhưng lại chính là thủ phạm gây ra biết bao oan khốc đến nỗi sinh li tử biệt cho người dân vô tội.
 Ở đó còn có hiện thực về thân phận con người, trong Truyện Kiều, trên cái nền tối đen, xám xịt của xã hội phong kiến bất công và thối nát, Nguyễn Du đã phơi bày hiện thực đau đớn đến nhức nhối lương tâm về số phận con người, đặc biệt là người phụ nữ. Xưa, Bạch Cư Dị từng nói: “Nhân sinh mạc túc phụ nhân thân. Bách niên khổ lạc do tha nhân” (Đời người không nên làm phụ nữ. Trăm năm sướng khổ do người khác quyết định). Nhưng hiện thực về số phận con người kết tinh trong hình tượng nàng Kiều không chỉ được nhìn từ góc độ giới tính mà còn được nhà thơ cắt nghĩa, lí giải từ góc độ xã hội. Làm nên thân phận ấy không phải bởi tại trời sinh ra là phụ nữ, thân phận ấy là hệ quả tất yếu của một xã hội xem thường giá trị con người. Thông qua hiện thực đó, Nguyễn Du đã thể hiện cái nhìn cảm thông, thương xót trước kiếp người “tài hoa bạc mệnh”. Đó chính là tấc lòng nhân đạo của tác giả.
2.2.2. Nghệ thuật
2.2.2.1. Thể thơ
            Các nhà thơ Đường vận dụng chất liệu và thi pháp Đường thi vào sáng tác theo thể thơ quen thuộc là cổ thể và kim thể. Còn Nguyễn Du lại vận dụng những thi liệu đó vào sáng tác theo thể thơ lục bát - thể thơ truyền thống của dân tộc. Đó là sáng tạo độc đáo của đại thi hào.
2.2.2.1. Phép đối
- Giống: Vì đối là yêu cầu bắt buộc trong thơ Đường nên trong quá trình ảnh hưởng của mình, Nguyễn Du cũng không nằm ngoài việc sử dụng nghệ thuật đối từ thơ Đường.
Người sáng tác thơ luật Đường khi bắt gặp một cảnh huống thơ, hồn thơ đang dào dạt, bao nhiêu ý tứ cứ trào ra, vội phô diễn nó lên giấy mực. Chưa xong, người sáng tác thơ còn phải cô đúc, dồn nén, sao cho số câu, số chữ phải đúng theo luật; số chữ trong bài có thanh trắc phải xấp xỉ số thanh bằng. Đó chính là điều hé mở khái niệm về sự cân bằng, có ý nghĩa triết học cổ phương Đông nằm trong hình thức thơ Đường luật.
Ý nghĩa triết học nêu trên còn thể hiện rõ ở phép đối ngẫu. Trong một liên thơ (hai câu) được gọi là có đối, thì câu trước, nó như tung, câu sau nó như hứng, nó nương vào nhau làm cho ý thơ thêm mạch lạ. Vậy hèn chi, người ngàn xưa đã chả đưa đối ngẫu vào thể thơ này như một điều bắt buộc. Trong một bài thơ, những cặp đối ở các câu thực, luận chính là vẻ đẹp đặc sắc, và là một trong những điều kiện cần và đủ để nhận ra đó là một bài thơ Luật đường. Đọc thơ Đường luật mà không có đối thì chẳng khác gì “Ăn bánh nướng trung thu mà không có nhân thập cẩm” thật là nhạt nhẽo và vô vị.
 Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu
(hàng cây đất Hán Dương rực rỡ bên dòng sông tạnh,
 cỏ thơm bãi Anh Vũ vẫn tốt tươi).
(Hoàng Hạc lâu – Thôi Hiệu)
Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng
Tái thượng phong vân tiếp địa âm
(giữa dòng sông sóng tung lên tận trời,
 trên cửa ải gió mây như sà sát mặt đất)
(Thu hứng – Đỗ Phủ)
Nguyễn Du chịu ảnh hưởng của thơ ca cổ điển Trung Quốc rất sâu sắc. Có thể nói trước khi viết Truyện Kiều, Nguyễn Du đã có một nhãn quan thi ca Trung Quốc sâu sắc thể hiện trong các áng thơ chữ Hán của ông.
- Khác: Nguyễn Du sử dụng thành thạo các phép đối trong thể thơ truyền thống của dân tộc và sử dụng dày đặc trong Truyện Kiều, tạo thành một chất lượng mới của truyện thơ lục bát.
“Khuôn trăng đầy dặn, nét ngài nở nang
Hoa cười, ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”
“Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh
2.2.2.2. Điển cố, điển tích
- Giống: Nguyễn Du dùng nhiều điển cố, cụm từ, câu sẵn của thơ ca Trung Quốc, một tập quán sáng tác mà các nhà thơ Trung Quốc thường có:
10


32



            192


238



            2174
Bốn phương phẳng lặng, hai kinh vững vàng
Nghề riêng ăn đứt Hồ Cầm một trương


Đào nguyên lạc lối đâu mà đến đây

Chưa xong điều nghĩ đã đào mạch tương


Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo
Đời nhà Minh bên Tàu có hai kinh đô là Nam Kinh và Bắc Kinh

Hồ cầm là cái đàn tỳ bà. Ngày xưa Hán Nguyên Đế có bà Chiêu Quân phải đi cống rợ Hồ, thường hay đánh cái đàn ấy nên mới gọi là Hồ cầm.
Cuối đời nhà Tấn có một người đánh cá đi lạc vào một cái suối, đi mãi gặp chỗ Tiên ở.
Bà Nga Hoàng và bà Nữ Anh ngày xưa khóc vua Thuần bên bờ sông Tương. Cho nên bây giờ người ta lấy chữ tương ví với nước mắt đàn bà
Thơ của Hoàng Sào, là tướng giặc đời Đường có câu: Nửa vai đeo cung kiếm có trời cho. Một chèo đi khắp non sông trên đất
            Một trong những nét đặc trưng của thi pháp thời kỳ này là sử dụng điển cổ, điển tích, tập cổ... Trong Truyện Kiều những hình thức này không ít, Nguyễn Du đã sử dụng rất nhiều điển cổ, điển tích của Trung Quốc được lấy từ Kinh Thi, Tình sử, Tả truyện, Kinh Dịch, Lễ ký, Hán Thư, Tây sương, Thần tiên truyện...
- Khác: Qua bàn tay tài hoa của ông, nững điển cố này đã được sử dụng rất sáng tạo và đã trở nên quen thuộc hơn, gần gũi với tâm hồn dân tộc Việt Nam hơn. Như thế ngôn ngữ Việt cũng trở nên giàu có và phong phú hơn khi du nhập những từ ngữ mới.
Chẳng hạn như từ bể dâu trong câu “trải qua một cuộc bể dâu” là mượn từ câu “Thương hải biến vi tang điền” (bể xanh hóa thành nương dâu – thần tiên truyện) hay như câu:
Sầu đong càng lắc càng đầy,
Ba thu dọn lại một ngày dài ghê” (câu 247-248) 
Là hình thức tập cổ của câu Nhất nhật bất kiến như tam thu hề (một ngày không thấy mặt lâu như ba tháng mùa thu – kinh thi).
2.2.2.3. Tính chất “thi trung hữu họa”
Thơ Đường có một sắc thái đặc thù, đó là mối quan hệ giữa thơ và các ngành nghệ thuật khác. Vào thời đó, các ngành nghệ thuật như âm nhạc, vũ đạo, hội họa, thư pháp, nghệ thuật viết chữ, v.v.. đã rất phát triển và chắc hẳn đều có tác dụng nâng cao khiếu thẩm mỹ của các nhà thơ. Đặc biệt có mối quan hệ khăng khít giữa hội họa và thi ca. Nhiều nhà thơ cũng đồng thời là họa sĩ, chẳng hạn như hào thi Vương Duy; nhiều bức họa của ông- nhất là họa phá mặc sơn thủy – đến nay vẫn còn được truyền tụng. Nói về Vương Duy, Tô Đông Pha, một danh sĩ đời Tống, đã có câu “thi trung hữu họa, họa trung hữu thi” (trong thơ có họa, trong họa có thơ).
a1. Cặp màu sóng đôi
Nguyễn Du khéo dùng các cặp màu sóng đôi theo lối của Đỗ Phủ. Nguyễn Du tôn phục Đỗ Phủ, ông giống và có lẽ cả tiếp thu nữa quan niệm nghệ thuật về sáng tác văn học của Đỗ Phủ.
Chỉ bằng một câu thơ lục bát, bức họa xuân hiện ra đẹp đến không ngờ:
                                 Cỏ non xanh tận chân trời,
                                     Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
             
Cách viết của Nguyễn Du khiến ta không phân biệt được đâu là thơ, đâu là họa nữa. Thảm cỏ xanh non trải ra mênh mang đến "tận chân trời" là gam màu nền cho bức tranh xuân. Trên nền xanh mượt mà ấy được điểm xuyết một vài bông hoa lê trắng. Đây chính là cái hồn, cái thần, là nét vẽ trung tâm của bức tranh. Tiếp thu từ câu thơ cổ trung Quốc: "Phương thảo liên thiên bích / Lê chi sổ điểm hoa" (Cỏ thơm liền với trời xanh / Trên cành lê có mấy bông hoa), Nguyễn Du đã vận dụng sáng tạo khi thêm màu trắng vào câu thơ. Cả một không gian xuân hiện lên khoáng đạt, trong trẻo vô cùng. Màu sắc có sự hài hòa đến mức tuyệt diệu. Chỉ hai màu thôi mà có thể gợi nên vẻ mới mẻ, tinh khôi, tươi sáng, trẻ trung đầy thanh khiết đến như vậy. Tính từ "trắng" kết hợp với động từ "điểm" đã thể hiện được cái đẹp, cái sống động của câu thơ lẫn bức tranh xuân, gợi hình ảnh lay động của hoa làm cho cảnh vật trở nên sinh động, có hồn chứ không tĩnh lại. Những đường nét mềm mại, thanh nhẹ, sắc màu không sặc sỡ mà hài hòa, không tả nhiều mà vẫn gợi được vẻ đẹp riêng của mùa xuân. Phải là người sống chan hòa với thiên nhiên, cỏ cây và nhất là có tâm hồn rung động tinh tế, thi nhân mới có thể viết được những câu thơ nhẹ nhàng mà đầy biểu cảm tuyệt vời đến thế. Dường như Nguyễn Du đã thay mặt tạo hóa dùng ngòi bút để chấm phá bức tranh nghệ thuật cho riêng mình.
Truyện Kiều có nhiều từ ngữ chỉ màu sắc (có đến 119 lần), với nhiều màu khác nhau. Nguyễn Du dùng từ chỉ màu sắc để tạo thành các hình tượng có nội dung khái quát, rộng lớn và giàu giá trị thẩm mỹ.
Tả nàng Vân với mái tóc dài, mượt còn xanh hơn cả mây; làn da trắng mịn hơn cả tuyết (Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da). Ở đây Nguyễn Du dùng màu mây thay cho màu đen của mái tóc. Bởi trong Truyện Kiều chưa có màu đen có ý nghĩa đẹp cho nên tóc đen đẹp được gọi là tóc mây.
Tả nàng Kiều với đôi môi đỏ thắm khiến hoa phải ghen vì thua thắm và mái tóc xanh mượt khiến liễu phải hờn (Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh)
Không chỉ có màu trắng, màu xanh, Nguyễn Du còn đề cập đến màu vàng, màu hồng trong câu Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia. Đó không chỉ đơn thuần là sắc vàng của cồn cát nhấp nhô, sắc hồng của từng đám bụi cuốn lên từng dặm xa mênh mông mà còn là cát bụi của cuộc đời.
Đó là màu vàng – xanh. Vàng tàn tạ héo uá của nội cỏ dàu dàu Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
b. Chất hoạ trong những bức chân dung nhân vật
Trong chân dung nghệ thuật, vấn đề hàng đầu là đường nét, màu sắc đậm nhạt, lu mờ. Nắm vững nguyên lý vẽ chân dung nghệ thuật khi hoạ tác nhân vật Thuý Kiều, nhân vật trung tâm của tác phẩm, Nguyễn Du đã chọn những gam màu mát, màu trắng trong của nước, màu xanh của núi và liễu, màu sắc đậm và tươi của hoa “thắm”; đường nét mảnh mai uyển chuyển sống động “làn, nét ” và phẳng lặng của mặt nước hồ thu. Không chỉ có những màu đơn, màu phối, Nguyễn Du còn dùng lối so sánh về cường độ màu “thua thắm, kém xanh” để làm rõ vẻ đẹp hoàn thiện toàn mỹ, làm hiện lên số phận của một con người theo đúng triết lý “Hồng nhan bạc mệnh, tài tử đa truân”. Chỉ hai nét vẽ, bức chân dung của một giai nhân tuyệt thế đã hiện hữu, đó chính là cái tài của thi hào.
Khác với nhân vật Thuý Kiều, nhân vật Thuý Vân là loại nhân vật đề thêm để tôn thêm vẻ đẹp và gỡ rối cho Thuý Kiều. Vì thế, nhân vật này dù có nhắc đến nhiều lần nhưng chỉ mang chất hoạ có một lần ở phần  đầu tác phẩm. Nhưng để tạo ra vẻ đẹp theo kiểu “Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười” không phải là chuyện dễ. Vẽ Thuý Vân Nguyễn Du đi theo trình tự từ tổng thể đến chi tiết, từ dáng người đến khuôn mặt, nét ngài, nụ cười, tiếng nói, mái tóc, màu da. Nhờ sự hài hoà về sắc màu, mềm mại về đường nét, vượt chuẩn về âm thanh, cân đối về hình khối, hoàn chỉnh cả điểm lẫn diện mà bức chân dung Thuý Vân trở nên viên mãn, sống đông, phúc hậu, mệnh phụ. Dù vậy, vẻ đẹp của Thuý Vân thiếu đi cái thần “đôi mắt”, nó thiên về vẻ đẹp khuôn thước mẫu mực hơn là vẻ đẹp gợi cảm, sắc sảo và quyến rũ. Điều đó đã làm nên sự khác biệt giữa hai chị em, hai số phận, hai tính cách: người thì hồng nhan bạc mệnh kẻ thì hạnh phúc ấm êm.
Để tránh đi sự đơn điệu, Nguyễn Du phác hoạ nhân vật Kim Trọng được trong khung cảnh buổi chiều thiên nhiên đầy diễm lệ, thanh tao. Khung cảnh thiên nhiên đã trở thành cái phông màn tôn thêm vẻ đẹp cho nhân vật, và ngược lại nhân vật làm cho bức tranh thêm sống động có hồn. Cái tài của Nguyễn Du là tạo ra một bố cục có chính có phụ: người - ngựa, thầy - tớ, con người - thiên nhiên, dưới một góc nhìn xa gần. Camera của thi hào đặc biệt chú ý đến cử chỉ từ tốn chậm rãi của một văn nhân thực thụ “lỏng buông, xuống ngựa, tới nơi, vào trong, ra ngoài”. Kỹ thuật pha màu của nhà thi hoạ đã đạt đến độ điêu luyện cao tay khi tạo ra sắc màu độc đáo của chiếc áo. Màu của chiếc áo là sự hoà trộn giữa sắc biếc của da trời và sắc xanh của cỏ. Màu sắc ấy có được còn là sự kết hợp giữa tấm lòng trân trọng của Nguyễn Du và trái tim rung cảm của nàng Kiều. Đây là bức tranh mang tính chất động, có gam màu mát trong đó màu xanh- xanh cỏ, xanh trời, xanh áo, xanh cây là sắc màu chủ đạo. Bên cạnh đó đường nét thể hiện sự vận động cũng được Nguyễn Du sử dụng thật tài tình. Những bước chân di chuyển nhẹ nhàng của chàng Kim đã làm cho thiên nhiên thức dậy, bừng sáng, vận động khẽ khàng. Kim Trọng xuất hiện, dung mạo của chàng, cử chỉ, phong độ của chàng làm “xinh đẹp của một vùng” (chữ dùng của Xuân Diệu).
Nếu Kim Trọng hiện ra trong sắc chiều êm ả thì Từ Hải được vẽ ra trong đêm thanh tĩnh gió hây hây thổi, không khí huyền ảo tràn ngập ánh trăng. Bức chân dung đã có thêm nét tối sáng, nét rõ mờ rất phù hợp với chất huyền thoại của nhân vật. Bút lực của Nguyễn Du không dồn vào màu sắc mà dồn vào đường nét. Nét bút có đường nét to và rất mạnh mẽ ”râu hùm, hàm én, mày ngài”, phóng bút nhiều chiềuchiều ngang - vai năm tấc rộng, chiều dọc -thân mười thước cao; chiều cao - đội trời và chiều thấp - đạp đất… Dù chỉ chọn 4 nhân vật tiêu biểu, người đọc cũng dễ dàng thấy rõ Nguyễn Du – trong những câu văn của mình ở Truyện Kiều – đã vận dụng bút pháp “thi trung hữu họa” của thơ Đường. Qua đó, ta thấy được nét đẹp trong thơ ông cũng như thành tựu mà nhà thơ đã kế thừa từ thơ Đường.
2.2.2.4. Hình ảnh, từ ngữ ước lệ, tượng trưng
 Thơ Đường thường dồn nén những ẩn dụ tượng trưng. Những ẩn dụ tượng trưng này có sức bùng nổ lượng thông tin lớn. Cái ưu thế của nghệ thuật tinh tế, diệu xảo được tạo ra bởi "ngôn hữu hạn, ý vô cùng", nhờ sự lựa chọn và tổ chức hình ảnh mang tính ẩn dụ cao.
Tiền bất kiến cổ nhân
                          Hậu bất kiến lai giả
                          Niệm thiên địa chi du du
                          Độc thương nhiên nhi lệ hạ
                                                            (Đăng U châu đài ca - Trần Tử Ngang)
 (Trông lại trước không thấy người xưa, trông lại sau không thấy ai đến, nghĩ trời đất lâu dài vô cùng, một mình lệ rơi đau xót)
Bên cạnh đó, thơ Đường hết sức coi trọng việc sử dụng ngôn ngữ.  Ngôn ngữ thơ đường là ngôn ngữ tinh luyện và chính xác, cô động và hàm súc.
Tiếp thu những yếu tố đó, trong Truyện Kiều, Nguyễn Du hết sức chú ý về hình ảnh và ngôn từ ông sử dụng. Từ ngữ và hình ảnh đều cô đọng và mang tính ước lệ cao. Là nhà thơ thiên tài của dân tộc, Nguyễn Du là người chiụ ảnh hưởng rất lớn thi pháp cổ điển về khắc hoạ, xây dựng hình tượng nhân vật. Vì thế ngôn từ ước lệ được sử dụng nhiều trong Truyện Kiều. Cũng giống như người xưa, nhà thơ đã lấy vẻ đẹp của thiên nhiên như tuyết - mai, trăng - hoa, mây - tuyết, thu thuỷ - xuân sơn, hoa - liễu …làm chuẩn mực, làm thước đo giá trị, vẻ đẹp của con người. Tác giả đã dùng bút pháp cực tả tuyệt đối hoá, lý tưởng hoá nhan sắc cốt cách hai chị em Kiều. Đó là Mai cốt cách, tuyết tinh thần, khuôn trăng, nét ngài, hoa cười ngọc thốt, mây thua, tuyết nhường, làn thu thuỷ, nét xuân sơn, hoa ghen, liễu hờn … Để khắc hoạ cái cốt cách thanh tao, mảnh dẻ như mai; tinh thần trong trắng như tuyết. Một vẻ đẹp mười phân vẹn mười nhưng mỗi người một vẻ củachị em Kiều. Tả nàng Vân kiều diễm Nguyễn Du dùng: khuôn trăng, nét ngài, hoa cười, ngọc thốt, mây thua, tuyết nhường cùng vơí một số từ nôm na như khác vời và những từ ngữ đầy đặn, nở nang vừa khắc hoạ được vẻ đẹp đoan trang, phúc hậu của nàng Vân, vừa như dự báo được cuộc sống sau này rất bình lặng của nàng.
Còn với Kiều, Nguyễn Du đã dùng vẻ đẹp của Thuý Vân để bẫy vẻ đẹp của Kiều. Nhà thơ đã dùng đến 12 câu thơ để khắc hoạ về Kiều. Điều đó chứng tỏ nhà thơ đã dành cho nhân vật chính của mình một tình cảm hết sức đặc biệt. Nhiều thi liệu cổ đã được huy động để khắc hoạ bức chân dung tuyệt mỹ của giai nhân như: Làn thu thuỷ, nét xuân sơn, hoa ghen, liễu hờn… Với bút pháp lý tưởng hoá, Kiều hiện ra trước mắt người đọc bằng hình ảnh một thiếu nữ có đôi mắt trong sáng, bình lặng như mặt nước hồ thu; nét mày uốn cong thanh tú như dáng núi mùa xuân.Thật là một dung nhan rực rỡ, sắc sảo mặn mà, vừa có duyên, vừa có hồn. Nhưng đẹp đến độ sắc nước hương trời, chim sa cá lặn, nước thành nghiêng đổ, hoa phải ghen, liễu phải hờn tất cuộc đời sẽ gặp nhiều sóng gió, đau khổ… Mười lăm năm lưu lạc chìm nổi của Kiều đã chứng minh rõ điều đó. Là một nghệ sĩ về ngôn từ, Nguyễn Du không sử dụng những thi liệu cổ ấy một cách máy móc rập khuôn mà sự sáng tạo của nhà thơ là rất lớn. Nói tới nỗi buồn của người đẹp, nhà thơ gắn với những thềm hoa, lệ hoa, rồi nét buồn như cúc, điệu gầy như mai… Nói chung, qua việc sử dụng những thi liệu cổ nhà thơ đã tạo ra những từ ngữ rất riêng, rất Nguyễn Du, nhưng vẫn là ngôn ngữ dân tộc.
2.2.2.5. Bút pháp tả cảnh ngụ tình
- Giống:
+ Thơ Đường là thể loại thơ mà có thể nói sống đúng nghĩa với hai chữ “trữ tình”. Tình cảm, cảm xúc trở thành mạch nối vô hình để hàn kết các hình ảnh, ý tưởng, nhạc điệu tạo nên sự vận động của ý thơ trên con đường tạo nên cấu tứ. Nhưng trong thơ Đường, cá nhà thơ thường không bộc lộ trực tiếp tình cảm mà thường giấu mình qua bức tranh thiên nhiên. Ta hãy thử cảm nhận cái không khí mênh mang, u tịch trong bài Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu
Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ
Thử địa không dư Hoàng hạc lâu
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản
Bạch vân thiên tải không du du
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu
Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
(Người xưa đã cỡi hạc vàng bay đi mất, chỉ còn trơ lại Lầu Hoàng hạc tại mảnh đất này. Hạc vàng một đi không trở lại, ngàn năm mây trắng vẫn bay dằng dặc, hàng cây đất Hán Dương rực rỡ bên dòng sông tạnh, cỏ thơm bãi Anh Vũ vẫn tốt tươi. Lúc trời chiều đứng trông về làng cũ tự hỏi: Quê hương ở chốn nào? Khói sóng mịt mờ trên sông nước khiến cho người nổi mối ưu sầu)
Tác giả đặt tâm hồn mình vào khoảng thời gian và không gian vô tận. Nỗi sầu từ sự ý thức giữa cái hữu hạn của kiếp người và cái vô cùng của tạo vật đã thành mạch chảy suốt bài thơ. Người xưa đi mất, quanh đây chỉ còn mây trắng bay. Cái buổi chiều là ảo tưởng xa xôi nhưng cũng hết sức cận kề. Ý thức về sinh ký tử quy của tác giả như hòa vào khói sóng đìu hiu và rồi tất cả chỉ còn đọng lại trong một chữ "sầu" trĩu nặng ở cuối bài thơ.
+ Nguyễn Du cũng vậy, ông sử dụng kinh nghiệm tả tình của thơ ca qua các chủ đề như Tống biệt, Hoài cổ, Nhớ nhà đi sớm,Cảm khái thân thế, cảm lưu lạc… Đó là những thơ đề rất phổ biến trong thơ ca Trung Quốc, nhất là thơ Đường. Thông qua bức tranh ngày xuân đi trẩy hội, Lễ Thanh minh, nhà thơ gửi gắm nhiều điều. Nguyễn Du đã từng viết: "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?". Vì vậy, khi vào lễ hội, người vui thì cảnh sắc rộn ràng tười mới. Lúc lễ hội tan rồi, người về sao tránh khỏi sự xao xuyến, cảnh sắc sao tránh khỏi màu ảm đạm! Dường như có một nỗi niềm man mác, bâng khuâng thấm sâu, lan tỏa trong tâm hồn vốn đa tình, đa cảm như Thúy Kiều. Nguyễn Du không chỉ nhằm nói tâm trạng buồn tiếc khi lễ hội vừa tàn, mà hình như, ông chuẩn bị đưa nhân vật của mình vào một cuộc gặp gỡ khác, một thế giới khác. Như ta đã biết, ngay sau buổi Thanh minh, Nguyễn Du đã sắp đặt để Thúy Kiều gặp Đạm Tiên và Kim Trọng. Vì thế, cảnh vật trong hoàng hôn này cũng là một dự báo, một linh cảm cho đoạn trường mà đời kiều sắp phải bước qua. Tả cảnh, tả tình như thế thật khéo, cách chuyển ý cũng thật tinh tế, tự nhiên.
2.2.2.6. Sừ dụng chất liệu Đường thi (mượn, phỏng dịch, phóng tác)
- Giống: Trong Truyện Kiều đã có rất nhiều câu có chất liệu Đường thi. Những câu như: “Màu hoa lê hãy dầm dề giọt mưa” (câu226) gợi người đọc nhớ tới câu “ngọc dung tịch mịch lệ lan can, lê hoa nhất chi xuân đái vũ” (mặt ngọc âm thầm,nước mắt chan hòa; như một cành hoa lê ướt đẫm nước mưa xuân). Hay câu “trong khi chắp cánh liền cành” (câu 515) gợi nhớ tới câu “ tại thiên nguyện tác ty dực điểu, tại địa nguyện vi liên lý chi…” (trên trời nguyện làm con chim liềm cành,dưới đất nguyện làm cây liền cành)
 Ở đây cũng có nhiều câu thơ dịch mà nhờ Nguyễn Du những câu thơ Đường này đã nổi tiếng hơn:
Nhân diện bất tri hà xứ khứ
Đào hoa y cựu tiểu đông phong
(không biết mặt người ở nơi nào
Hoa đào vẫn cười với gió đông như cũ)
                                                    (đề tích sở kiến xứ - Thôi Hộ)
       Nguyễn Du mượn câu thơ này, mượn chuyện của Thôi Hộ mà nói tâm sự của chàng Kim khi trở lại vườn Thúy. Cũng như Thôi Hộ, Kim Trọng trở lại tìm người đẹp cảnh vẫn như xưa, vẫn hoa đào, vẫn gió xuân... nhưng người xưa thì không tìm thấy nữa. Nguyễn Du dịch:
Trước sau nào thấy bóng người
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông
                                               (câu 2747-2748)
- Khác: Một câu thơ thần tình nếu là thơ, tài hoa nếu là dịch!  Bởi vì Nguyễn Du không dụng tâm làm một người dịch thơ Đường nên giữa câu thơ của ông với nguyên tác của Thôi Hộ có nhiều điểm khác biệt:
+ Nếu Thôi Hộ viết hà xứ khứ thì Nguyễn Du chỉ viết đơn giản là trước sau. Thôi Hộ nhớ về một khuôn mặt đã ửng hồng cùng với hoa đào mùa xuân trong lần gặp gỡ trước (Nhân diện, đào hoa tương ánh hồng, còn với chàng Kim có lẽ kí ức về nàng Kiều trong vườn Thúy là hình ảnh Dưới đào dưởng có bóng người thướt tha (câu 290). Do vậy Nguyễn Du cũng dùng từ bóng người là phù hợp với văn cảnh, với tâm trạng của chàng Kim. Câu thơ của Nguyễn Du mang nghĩa khẳng định, còn câu thơ của Thôi Hộ là một sự băn khoăn, không thể nói được ai là người viết hay hơn, sâu sắc hơn ai, bởi cả hai đều thể hiện được một nỗi thất vọng thật sự.
+ Ở câu thứ hai, Nguyễn Du đã có một sự sáng tạo độc đáo khi ông thay từ y cựu bằng từ năm ngoái. Y cựu là vẫn như cũ, hoa đào sau một năm, mùa xuân đến lại trổ ra những bông hoa y như trước kia, vẫn thắm tươi để cười với gió mùa xuân. Nguyễn Du có ý khẳng định hơn khi ông dùng từ năm ngoái. Không phải những bông hoa mới trở trong một mùa xuân mới, mà chàng Kim tưởng như đó là những bông hoa của năm ngoái. Chính là hoa đào của năm ngoái! Vậy thì bóng người thướt tha dưới hoa đào năm ngoái ở đâu? Nỗi xót xa dường như tăng thêm một bậc. Cảnh cũ vẫn còn mà người xưa đã vắng! Hoa đào cười với gió đông trở nên thành một hình ảnh quen thuộc trong lòng người yêu thơ, yêu Truyện Kiều.
+ Một đoạn thơ dịch chứng tỏ tài năng của Nguyễn Du là đoạn tả tiếng đàn của nàng Kiều trong màn đoàn viên
Khúc đâu đầm ấm dương hòa
Ấy là hồ điệp hay là Trang sinh?
Khúc đâu êm ái xuân tình!
Ấy hồn Thục đế hay mình đỗ quyên?
Trong sao châu dỏ duềnh quyên!
Ấm sao hạt ngọc Lam Điền mới đông!
                                            (câu 3199-3204)
- Giống:  Một đoạn thơ tả tiếng đàn đến tuyệt diệu, nhưng không hoàn toàn là sáng tạo của Nguyễn Du mà đúng hơn là những câu thơ dịch từ bài “cẩm sắt” của Lý Thương Ấn đời Đường:
Trang sinh hiểu mông mê hồ điệp,
 Thục đế xuân tâm thác đỗ quyên.
Thương hải nguyệt minh châu hữu lệ,
Lam điền ngọc noãn nhật sinh yên.
(tiếng đàn  như: khi Trang sinh lầm mình là bướm trong giấc mộng buổi sáng. Tấm lòng xuân của Thục đế gửi gắm vào chim đỗ quyên. Dưới biển xanh, trăng sáng chiếu xuống những hạt châu thành nước mắt chốn Lam Điền, nắng ấm soi trên những hạt ngọc tỏa khói).
Nguyễn Du chọn một đoạn thơ tả tiếng đàn tuyệt hay của Lý Thương Ẩn mà tặng cho nàng Kiều, tặng cho Kim Trọng. Trong buỏi tái hợp của mối tình xa cách mười lăm năm, tiếng đàn gảy nên tấm lòng yêu thương cho những con người vừa tìm được hạnh phúc.
- Khác: tiếng đàn của Kiều không còn thảm sầu, oán than, ngậm đắng nuốt cay như xưa nữa. Tiếng đàn lúc này rất đầm ấm như giấc mơ hóa bướm trong buổi sáng êm ái xuân tình, trong trẻo như hạt ngọc rơi xuống mặt nước có ánh trăng soi vào, ấm áp như ánh mặt trời, như những viên ngọc vừa ngưng kết. Nguyễn Du vì muốn cuộc đoàn viên của Kim Kiều được trọn vẹn cho nên ông đã làm cho tiếng chim đỗ quyên cũng trở nên êm ái lạ thường. êm ái như xuân tình! Không còn là tiếng kêu than não ruột của một vị vua mất nước. tấm lòng xuân của Thục đế trong lốt chim đỗ quyên trở nên ếm ấm lạ thường.
+ Những câu thơ của Nguyễn Du nống nàn, tha thiết quá vời những thán từ. nhờ hơi thơ lục bát mượt mả, những câu thơ Đường mang đậm hồn thơ Việt
Bài thơ cẩm sắt của Lý Thương Ẩn là một bài thơ hay và được nhiều ngưởi dịch, Trần Trọng Sam dịch những câu thơ đó như sau:
 Mơ màng giấc bướm Trang Sinh;
Lòng xuân vọng đê đỗ quyên gửi vào,
Biển xanh trăng chiếu lệ châu;
Ngọc phơi nắng ấm, khói cao Lam Điền
Trần Trọng Sam đã dịch thật sát nghĩa so với những câu thơ của Lý Thương Ẩn. Vì tâm thế dịch thuật hoàn toàn khác Nguyễn du nên những câu thơ dịch củ ông thật hoàn chỉnh, đúng nghĩa là những câu thơ dịch. Nhưng cũng cần nói lại một lần nữa là Nguyễn Du của chúng ta không hề có chủ tâm dịch mà chỉ mượn những câu thơ của Lý Thương Ẩn mà thôi.ông đã vận dụng chúng thật sáng tạo để viết nên những câu thơ tả tiếng đàn tuyệt vời của mình.
- Giống: Nguyễn Du còn dùng nhiều câu thơ Đường khác trong sáng tác của mình. Chẵng hạn như câu:
Bán kiên cung kiếm bằng thiên túng
Nhật trạo giang sơn tận địa duy
Của Hoàng Sào để tả Tù Hải: Gươm đàn nữa gánh, non sông một chèo (câu 2174).
Một sự lựa chọn phù hợp để khắc họa nhân vật Từ Hải, nhân vật lý tưởng trong tác phẩm. Rồi một câu thơ cũng rất quen thuộc trong bài Vô đề của Lý Thương Ẩn:
Xuân tàm đáo tử ty phương tận
(con tằm xuân đến lúc chết thì tơ mới hết)
- Khác: Nguyễn Du còn làm cho nỗi lưu luyến còn day dứt hơn nữa khi viết “ Con tằm đến thác, cũng còn vương tơ” (câu 1976). Không phải khi tằm chết thì hết nhả tơ, mà tơ vẫn còn vương bên xác tằm. Chỉ có điều ông lại để câu này thốt ra từ miệng của Thúc Sinh, trong khi chàng Thúc này sợ hãi Hoạn Thư đến nỗi đã bỏ rơi nàng Kiều tội nghiệp, đẩy Kiều vào con đường đau khổ một lần nữa.
- Giống: Câu thơ kết thúc của hận trường ca nổi tiếng cùa Bạch Cư Dị cũng được dịch trong truyện Kiều:
Thử hận miên miên vô tuyệt kỳ
(mối hận này triền miên không lúc nào chấm dứt)
 Mối hận chia ly của Kim Kiều có khác gì mối hận của Đường Minh Hoàng và Dương Quý Phi ở thời Đường chứ, cũng là Sầu này dằng dặc một đời chưa quên, dịch được chữ miên miên thành dằng dặc đã là một sự tuyệt với. Nguyễn Du thể hiện ý thơ này đã thể hiện sâu sắc sự thấu hiểu đối với mối tình của họ.
Rồi cả câu thơ “Giếng vàng đã rụng một vài lá ngô” là dịch từ câu “kim tĩnh ngô đồng thu diệp hoàng” trong bài Trường tín thu từ của Vương Xương Linh .
Khi thúy Kiều trở về với gia đình có hẹn là sẽ lập am rước Giác Duyên, nhưng cho người trở lại tìm thì Giác Duyên không còn ở đó nữa. Đúng như hoàn cảnh Ẩn giả bất ngộ của Giả Đảo:
Tùng hạ vấn đồng tử
Ngôn sư thái dược khứ
Chỉ tại thử sơn trung
Vân thâm bất tri xứ
(Dưới cây tùng hỏi tiểu đồng
Trả lời rằng thầy đã đi hài thuốc
Chỉ nội trong núi này thôi
Mây dày không biết ở chốn nào)
Nguyễn Du mượn lại câu trả lời đó để trả lời cho sự vắng mặt của Giác Duyên:
Sư đà hái thuốc phương xa
Mây bay, hạc lánh, biết dâu là tìm
                                                (câu 3231-3232)
- Khác: Một câu thơ dịch như thế dịch chưa chỉnh nhưng vận dụng một bài bốn câu vào một bài dài như Truyện Kiều hơn ba ngàn câu đúng lúc, đúng chổ thật là quá khéo. Cái cớ hái thuốc trong đám mây dày không tìm ra được Nguyễn du nắm lấy để làm cái kết cho cả nhân vật Giác Duyên lẫn Thúy Kiều. Giác duyên là một người tu hành hay đi đây đi đó, không thể để bà về chổ Kiều được, mà nàng Kiều trong đoạn đoàn viên lại chẳng thể nào đi tu lần nữa. Một giải pháp hợp lý để mỗi nhân vật trong tác phẩm đi theo hướng của mình.


CHƯƠNG 3: ẢNH HƯỞNG THƠ ĐƯỜNG TRONG TẬP NHẬT KÝ TRONG TÙ CỦA  HỒ CHÍ MINH
Trong bài “Nay ở trong thơ nên có thép - cảm tưởng sau khi đọc tập thơ Nhật ký trong tù”, nhà thơ lớn Trung Quốc Quách Mạt Nhược viết: “Một trăm bài thơ hầu hết bài nào cũng đều toát ra hết sức sinh động hình ảnh một nhà cách mạng lão thành, thanh thoát, tài trí, ung dung, giản dị, kiên cường - ấy là đồng chí Hồ Chí Minh. Thật là “thi như kỳ nhân” - thơ như người vậy… Có một số bài rất hay, nếu đặt lẫn vào một tập của các thi nhân Đường - Tống thì cũng khó phân biệt”. Không phải ngẫu nhiên mà Quách Mạc Nhược có nhận xét như vậy. Điều đó chứng tỏ rằng ảnh hưởng của thơ Đường trong tập thơ Nhật ký trong tù là có thực. Vậy thì ảnh hưởng của nó đến mức độ nào? Chúng tôi khảo sát ở những mặt sau:
3.1. Nội dung
3.1.1. Đề tài
- Giống: Thơ Đường và Nhật ký trong tù đều chú ý khám phá sự thống nhất, sự giao cảm mà trước hết là sự thống nhất và giao cảm giữa con người và thiên nhiên. Nhật ký trong tù có nhiều bài viết về thiên nhiên mà trong đó, con người và thiên nhiên có một mối giao cảm với nhau. Chẳng hạn bài Cảnh chiều hôm:
 Hoa hồng nở, hoa hồng lại rụng,
Hoa tàn, hoa nở cũng vô tình.
Hương hoa bay thấu vào trong ngục
Kể với tù nhân nỗi bất bình.
Cái sự “nở” rồi “tàn” của hoa hồng - hình ảnh tượng trưng cho cái đẹp - cứ diễn ra theo quy luật trước sự “vô tình” của tạo hóa. Nó tìm đến với người tù Hồ Chí Minh là tìm đến với một tâm hồn thi sĩ. Nhà thơ, bằng khả năng riêng của mình có thể làm cho cái đẹp trở thành bất tử. Con người và thiên nhiên như hòa vào nhau trong nỗi niềm tri âm, tri kỷ. Nhà thơ Xuân Diệu đã từng thốt lên: “Ờ nhỉ! Sao hoa lại phải rơi?”. Cái ngơ ngác của Xuân Diệu phải chăng có sự hòa điệu với tâm hồn nhà thơ Hồ Chí Minh?
- Khác: Mặc dù phảng phất cách cảm nhận về thiên nhiên của thơ Đường, bài thơ của Hồ Chí Minh vẫn rất hiện đại. Sự tiếp nhận ở đây không chỉ nói lên cái ảnh hưởng mà còn nói lên sự đồng điệu của tâm hồn, của các nhân cách văn hóa.
            Ở thơ Đường, các nhà thơ chú ý đi vào mảng đề tài thiên nhiên, còn Nhật ký trong tù đề cập chủ yếu đề cập đến mảng đời sống, những vấn đề sinh hoạt cá nhân gần gũi hàng ngày. Ví như những bài Cơm tù, Chia nước, Rụng mất một chiếc răng, Hụt chân ngã, Cấm hút thuốc, Ghẻ lở
3.1.2. Cái tôi trữ tình
- Giống: Cũng như thơ Đường, trong Nhật ký trong tù, cái tôi trữ tình của tác giả thường hòa lẫn vào ngoại cảnh. Đọc bài thơ Chiều tối, người đọc hầu như không thấy tác giả. Những cánh chim mệt mỏi về rừng, một chòm mây lẻ loi trôi chậm chạp giữa bầu không khí mênh mông, người cô gái xóm núi xay ngô và một lò than đỏ rực khi trời tối. Mấy đường nét có đậm, có nhạt, nhưng tác giả dường như lánh hẳn sang một bên để cho ngoại cảnh phơi bày mọi vẻ của nó.
Trong bài Hoàng hôn, cái tôi trữ tình của tác giả cũng gần như hòa lẫn vào giữa đường nét, âm thanh và màu sắc của cơn gió lạnh, của tiếng chuông chùa xa và tiếng sáo mục đồng theo trâu về xóm:
 Gió sắc tựa gươm mài đá núi,
 Rét như dùi nhọn chích cành cây.
 Chùa xa chuông giục người nhanh bước
 Trẻ dắt trâu về tiếng sáo bay.
 Bài thơ phảng phất cách cấu tứ của bài Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế:
Trăng tà chiếc quạ kêu sương
 Lửa chài, cây bên, sầu vương giấc hồ.
Thuyền ai đậu bến Cô Tô
 Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn.
- Khác: Phong cảnh, đúng hơn là tâm cảnh trong thơ Hồ Chí Minh không bao giờ lạnh lẽo, cô quạnh như trong thơ người xưa, mà đang vận động theo vòng quay của cái cối xay ngô để đưa đến một buổi chiều đoàn tụ:                      
  Cô em xóm núi xay ngô tối
                 Xay hết, lò than đã rực hồng.
Thời gian trôi dần theo cánh chim bay về rừng, theo chòm mây trôi chầm chậm, theo vòng quay của cái cối xay ngô để rồi dẫn đến một bếp lửa hồng. Bếp lửa hồng lên nghĩa là buổi chiều đã đến lúc kết thúc nhường chỗ cho đêm tối, nhưng không phải là đêm tối mênh mông mà là ngọn lửa ấm nóng tình người. Chỉ thế thôi nhưng biết bao nhân hậu, bao sự trân trọng niềm vui nho nhỏ trong cuộc đời.
3.1.3. Hình ảnh cánh chim
- Giống: Trong Thơ Đường và thơ Bác, hình ảnh cánh chim xuất hiện rất nhiều.
- Khác: Cánh chim trong thơ Vương Bột là cánh chim điểm xuyết cho bức tranh phong cảnh. Còn cánh chim trong thơ Bác là cánh chim lồng tâm trạng con người.
3.2. Hình thức
3.2.1. Ngôn ngữ
- Giống: Thơ Đường và Nhật ký trong tù đều làm bằng chữ Hán, vì thế ít nhiều nó mang tính trạng trọng, hàm súc, giàu ý nghĩa biểu đạt, tượng trưng.
- Khác: Nhật ký trong tù nguyên tác bằng chữ Hán nhưng đôi khi Người lại xen tiếng Việt vào. Bài Cháu bé trong nhà lao Tân Dương, câu thơ đầu trong nguyên tác được viết bằng tiếng Việt: “Oa…! Oa…! Oa…!”. Đó là một hiện tượng đặc biệt nói lên biện pháp nhại được ý thức rất rõ trong bài thơ. Đọc câu thơ, ta như nghe tiếng khóc uất ức, kéo dài giọng bất bình của một cháu bé Việt Nam nào đó cất lên giữa chốn lao tù.
3.2.2. Thể loại
- Giống: Tất cả các bài thơ trong tập thơ Nhật ký trong tù được sáng tác theo thể thơ Đường luật gồm thể thơ thất ngôn hoặc ngũ ngôn, tứ tuyệt hoặc bát cú và thơ cổ phong.
- Khác: Ở những bài có nội dung lớn, cần viết nhiều hơn khuôn khổ của số câu quy định, Người phân thành hai bài đứng chung dưới một đầu đề. Nếu tách riêng ra, mỗi bài có thể tồn tại như một bài thơ độc lập nhưng đứng chung dưới một đầu đề, chúng bổ sung ý nghĩa cho nhau. Tuy nhiên trong tập thơ, có hai bài thơ phá thể. Đó là bài Cháu bé trong nhà lao Tân Dương đã nói ở trên, câu đầu chỉ có ba chữ chứ không đúng bảy chữ theo quy định của thể thơ. Mặc dù vậy, các dấu ba chấm và dấu chấm than sau mỗi từ trong câu thơ làm cho nó có sức ngân kéo dài như câu thơ bảy chữ. Đây là một sáng tạo độc đáo của Người. Một trường hợp khác là bài Giải đi Vũ Minh:
 Đã giải đến Nam Ninh,
 Lại giải về Vũ Minh
 Giải đi quanh quẹo mãi
 Kéo dài cả hành trình
 Bất bình!
 Bài thơ có năm câu. Bốn câu đầu đủ tạo nên một bài tứ tuyệt, nhưng tác giả lại thêm từ “bất bình!” đứng tách thành một câu độc lập thể hiện thái độ của người tù trước việc chế độ nhà tù đày ải người tù vô cớ mà không cần xét xử.
3.2.3. Tính chất “thi trung hữu họa”
- Giống: Trong thơ Đường nói riêng và trong thơ ca cổ điển phương Đông nói chung, ba yếu tố thơ, nhạc, họa thường hòa quyện làm một. Nó làm cho bài thơ nhỏ có một sức chứa lớn, có âm vang nhiều chiều.
- Khác: Trong bức họa thơ của Hồ Chí Minh luôn thấm đẫm chất đời thục nghiệt ngã. Bốn câu, hai mươi tám chữ trong bài thơ Hoàng hôn nói trên đã gợi lên một bức tranh sinh động với gió chém vào đá núi, với rét cứa vào cành cây, với hình ảnh người bộ hành dấn bước trên đường, với mục đồng vắt vẻo trên lưng trâu trong bản hòa tấu của âm nhạc: tiếng gió vi vút, tiếng chuông chùa ngân nga và tiếng sáo véo von. Cái thoáng nhẹ sâu lắng đó tạo nên âm vang trong lòng người đọc, khơi dậy những đợt sóng cảm xúc lan tỏa vô cùng. Sự quấn quyện giữa thơ, nhạc, họa cũng được thể hiện trong bài Người bạn tù thổi sáo:
 Bỗng nghe trong ngục sáo vi vu
 Khúc nhạc tình quê chuyển điệu sầu
 Muôn dặm quan hà khôn xiết nỗi
Lên lầu ai đó ngóng trông nhau.
 Đề tài bài thơ là một sự bay bổng vượt lên trên cái chốn nhơ bẩn, rác rửi, rận rệp nơi nhà tù. Ta bắt gặp ở đây một hồn thơ nhạy cảm với những âm thanh trong lành của tiếng sáo, của sự đồng cảm, đồng điệu giữa người thổi sáo và người nghe sáo, của sức tưởng tượng vừa bay bổng, vừa tạo hình thành những đường nét cao đẹp. Tiếng sáo có một sức mạnh liên kết nhiều con người ở nhiều hoàn cảnh khác nhau: nhà thơ, người thổi sáo, vợ người thổi sáo. Từ một tiếng sáo nhớ quê của người bạn tù, tác giả đã dẫn người đọc đến nhiều mối liên tưởng: Cảnh tượng sinh ly tử biệt giữa vợ chồng người bạn tù cũng như sự ngăn trở oái ăm giữa nhà thơ và đồng bào, đồng chí. Từ hình ảnh người tù nâng cây sáo, một khúc nhạc lan tỏa trong không trung đến hình ảnh người thiếu phụ nơi quê nhà xa xôi bước lên một tầng lầu như có một sợi dây liên hệ vô hình nào đó. Tiếng sáo đã bắc cầu trong không trung để nối liền tâm hồn với tâm hồn. Tiếng sáo ấy gợi nhớ, gợi thương, khiến ta nghĩ đến tấm lòng yêu thương con người của nhà thơ.
3.2.4. Ý tại ngôn ngoại
Thơ Đường và Nhật ký trong tù thường có cấu trúc gọn, nhẹ, cô đúc, ngôn ngữ gợi nhiều hơn tả, ý ở ngoài lời. Trong bài thơ Mới ra tù tập leo núi, thiên nhiên trở nên hùng vĩ với hình ảnh núi ôm mây, mây đỡ núi. Đó là cảnh ở ngọn Tây Phong Lĩnh Trung Quốc. Hình ảnh dòng sông thì trong suốt và phẳng lặng. Cũng như thơ Đường, Hồ Chí Minh không tả mà gợi. Tả đòi hỏi nhiều chi tiết. Ở đây, tác giả chỉ dùng hai nét theo bút pháp hội họa truyền thống phương Đông trong tranh thủy mặc: Một nét vẽ mây và núi gợi vẻ đẹp hùng vĩ của núi cao, một nét vẽ dòng sông trắng xóa chảy dưới chân núi phản chiếu ánh trời như một tấm gương phẳng sáng trong. Hai nét vẽ mà bao gồm được cả cao sơn, lưu thủy. Nhân vật trữ tình như hòa lẫn vào trong cảnh, mang cốt cách của một nhà hiền triết, nhìn cảnh vật từ trên cao, từ xa, bao quát cả một vùng không gian rộng lớn. Hình ảnh dòng sông mang ý nghĩa tượng trưng. Dòng sông trắng xóa phản chiếu ánh trời hay phản chiếu tâm hồn nhà thơ trải bao ngày tháng bị giam cầm, đày ải mà vẫn trắng trong, không vẩn bụi? Nỗi nhớ bạn hay cũng chính là nỗi nhớ nước luôn canh cánh bên lòng? Bài thơ gợi liên tưởng đến một Quan Vũ trung trinh, một Trương Phi ngay thẳng:
Cành lá khéo in hình Dực Đức
Vầng hồng sáng mãi dạ Quan Công
 Năm tròn cố quốc tăm hơi vắng
Tin tức bên nhà bữa bữa trông.
 Vì vậy, bài thơ kết thúc mà không khép kín, lại mở ra trường một liên tưởng rộng theo tư duy thẩm mỹ mới làm cho âm hưởng của bài thơ có sức lan tỏa rộng.
Văn chương có con đường giao tiếp riêng của nó. Đó là sự cộng hưởng giữa những tâm hồn. Nhật ký trong tù chung đúc văn hóa kim cổ Đông Tây trong tâm hồn Hồ Chí Minh. Tìm hiểu mối quan hệ giữa Nhật ký trong tù với thơ Đường chính là lắng nghe cái âm vang sâu lắng của tập thơ và hiểu thêm sự gặp gỡ giữa những tâm hồn thi sĩ phương Đông. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh không đi lại lối mòn của người xưa. Thái độ đó đã được nói rõ trong bài thơ Cảm tưởng đọc thiên gia thi. Tâm hồn Hồ Chí Minh chung đúc khí thiêng của nhiều nền văn hóa, trong đó có cái giọng sục sôi nhiệt huyết của Phan Bội Châu, sự thâm thúy và cô đúc của văn chương cổ điển phương Đông, trong đó có thơ Đường, thơ Tống, cái rành mạch trong văn chương Pháp, chất hài hước của văn chương Anh… Những biểu hiện cụ thể nói trên chứng tỏ một sự gặp gỡ sâu sắc, chứ không phải là mô phỏng, bắt chước. Trong sự ảnh hưởng và kế thừa đó, Hồ Chí Minh có sự cách tân. Sự cách tân tạo nên một kiểu tư duy thẩm mỹ mới, để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng bạn đọc

KẾT LUẬN
Có thể thấy, thơ Đường ảnh hưởng rất sâu sắc trong lòng dân tộc Việt Nam. Chúng ta có cả một nền văn học trung đại, sáng tác theo bút pháp Đường thi, điều đó chứng tỏ ảnh hưởng của thơ Đường đối với nền văn học Việt Nam là rất lớn. Cho nên nghiên cứu ảnh hưởng của thơ Đường trong thơ Nguyễn Du và thơ Hồ Chí Minh, ta thấy được ảnh hưởng cũng như sự sáng tạo của cha ông ta trong quá trình tiếp nhận. Qua đó sẽ góp phần nhận ra những giá trị tinh hoa của văn học nước nhà, cũng như vận dụng kết quả nghiên cứu này vào việc học tập và giảng dạy văn học Việt Nam, Trung Quốc ở nhà trường phổ thông.
Do điều kiện thời gian eo hẹp, trình độ hạn chế, bài viết của chúng tôi mới chỉ là những nghiên cứu bước đầu nên còn nhiều thiếu sót. Hy vọng sự đóng góp chân thành của thầy cô, bè bạn, để bài viết của chúng tôi hoàn thiện hơn.

Không có nhận xét nào: