MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trên thế giới không có một nền văn hóa nào lại cô độc. Chúng ta thấy
rằng, nền văn hóa ở mỗi nước đều chịu sự tác động của môi trường xung quanh.
Văn học là một bộ phận của văn hóa nên cũng chịu ảnh hưởng qua lại. Phân tích
một tác phẩm văn học trong tương quan so sánh với tác phẩm hay nền văn học, văn
hóa khác là một cách để mở rộng bình diện nghiên cứu, thấy được những nét tương
đồng, dị biệt, cái hay, cái đặc sắc và cả những hạn chế của cùng lúc hai đối
tượng.
Từ lâu các nhà nghiên cứu đã thừa nhận mối quan hệ giao lưu, ảnh hưởng và
tiếp biến văn hóa của hai dân tộc Việt – Trung. Ảnh hưởng của văn học Trung
Quốc đối với nước ta là điều không thể phủ nhận, trong đó có tầm ảnh hưởng sâu
đậm của thơ Đường mà thơ Đường Trung Quốc là đỉnh cao của thơ ca cổ điển Trung
Quốc. Tìm hiểu ảnh hưởng của loại thơ này, một lần nữa chúng ta có cơ hội tiếp
cận với một hình thức tinh hoa văn hóa nhân loại.
Nhắc đến văn học thời trung đại, chúng ta không thể không nhắc đến Nguyễn
Du, và nhắc tới văn học hiện đại thì Hồ Chí Minh là một tác gia tiêu biểu. Ở
họ, ta thấy rõ ảnh hưởng Đường thi. Chúng tôi chọn Truyện Kiều vì đây là kiệt tác của Nguyễn Du. Nếu đem ra so sánh,
ảnh hưởng, thiết nghĩ, ta nên chọn tác phẩm này.
Bên cạnh đó, chúng tôi cũng chọn tập thơ Nhật ký trong tù để so sánh vì nó được viết bằng chữ Hán. Điều này
không có gì là lạ. Sinh ra trong một gia đình nhà nho, được học chữ Hán từ nhỏ
lại tiếp thu nền văn hóa chịu ảnh hưởng của Hán học, Hồ Chí Minh rất thông thạo
chữ Hán. Hơn nữa, khi viết Nhật ký trong
tù, Người đang bị giam cầm trong nhà tù Tưởng Giới Thạch ở Trung Quốc nên
việc sử dụng chữ Hán, một thứ chữ hàm súc về ý nghĩa để sáng tác thơ là điều dễ
hiểu. Trong Nhật ký trong tù, có lúc
người phá cách diễn đạt thông thường của chữ Hán.
Vì thế, chúng tôi quyết định chọn đề tài “Ảnh hưởng của thơ Đường trong
thơ Nguyễn Du và thơ Hồ Chí Minh”. Qua đó, chúng tôi muốn tìm hiểu sâu sắc sự
ảnh hưởng cũng như sáng tạo của cha ông trong tiếp thu tinh hoa văn học nước
ngoài nói chung và văn học Trung Quốc nói riêng, mà cụ thể ở đây là thơ Đường.
2. Lịch sử vấn đề
Đối với vấn đề này, đã có rất nhiều nhà nghiên cứu đề cập tìm hiểu một
cách hết sức sâu rộng. Ví như Phan Ngọc và “Tìm
hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều”, “Đặc điểm nghệ thuật thơ chũ
Hán Nguyễn Du” của Lê Thu Yến… Nhưng chúng tôi đặc biệt chú ý đến các công
trình nghiên cứu của GS. Trần Đình Sử. Trong cuốn Thi pháp Truyện Kiều đã nói: “Truyện
Kiều là sản phẩm có bối cảnh văn hóa rộng lớn. Sự vay mượn và sáng tạo của
Nguyễn Du nằm trong quỹ đạo của các kiểu sáng tác văn học và các nền văn hóa
bao bọc xung quanh”. Mặt khác, ông có nhận xét về văn chương chữ Hán Việt Nam
như sau: “Người Việt Nam hầu như đã di thực toàn bộ thể loại văn học của Trung
Quốc vào Việt Nam với những quy mô và biến đổi khác nhau. Trước hết là các thể
loại của sử học và các thể loại hành chính, sau đó là các thể loại thơ, phú và
truyền kì, tiểu thuyết”. Trong mối quan hệ đó, Đường thi không thể không có ảnh
hưởng đến văn học Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Chúng
tôi tập trung nghiên cứu cá tính sáng tạo, phong cách sáng tác của hai thi hào
Nguyễn Du và Hồ Chí Minh trong cái nhìn so sánh đối chiếu với thơ Đường. Chúng
tôi xin giới hạn phạm vi nghiên cứu như sau:
Ba tập thơ chữ Hán của Nguyễn Du (Thanh Hiên thi tập, Bắc hành tạp lục, Nam
Trung tạp ngâm), Truyện Kiều, tập
Đường thi tuyển dịch (1997), Nhật ký trong tù (2008).
NỘI DUNG
CHƯƠNG
1: GIỚI THUYẾT CHUNG
1.1. Khái niệm Đường thi
Khái niệm Đường thi có từ thời Đường (618 – 907) – một triều đại được coi
là có nhiều chính sách tiến bộ nhất trong lịch sử phong kiến Trung Quốc. Khái
niệm Đường thi vẫn là một khái niệm co dãn, có khi được chỉ tất cả các bài thơ
được sáng tác vào đời Đường của Trung Quốc, có khi lại chỉ tất cả các bài thơ
làm theo thể Đường luật. Cách hiểu thứ nhất, Đường thi được hiểu trùng với phạm
vi của một triều đại. Cuốn toàn Đường thi đã sưu tập được 48900 bài thơ của hơn
2200 tác giả sống trong khoảng thời gian từ năm 618 đến năm 907, và được sáng
tác trên 3 thể chính: Thơ luật Đường, thơ Cổ phong và Nhạc phủ. Theo cách phân
chia này thơ đường được chia làm 4 giai đoạn: Sơ Đường (618 – 713), Thịnh Đường
(713 – 766), Trung Đường (766 – 835), Vãn Đường (835 – 907). Nếu theo cách hiểu
này, khái niệm Đường thi bị bó hẹp là thơ của một triều đại. Về cách hiểu thứ
hai, có nghĩa là Đường thi trở thành một thể tài, có những nguyên tắc và chuẩn
mực nhất định. Khái niệm Đường thi đồng nhất với khái niệm luật thi – một thể
thơ mới ra đời vào thời Đường. Như vậy sẽ không còn bó hẹp về không gian
và thời gian, chỉ cần những sáng tác đảm bảo quy tắc của luật thi đều là thơ
Đường. Nhận thấy rằng tất cả những sáng tác vào thời Đường, dù trực tiếp hay
gián tiếp, dù ít hay nhiều đều bị ảnh hưởng bởi thơ Đường luật. Thời Đường có
một sự vận động lớn trong thơ ca, mà luật thi là sản phẩm cao nhất của quá
trình đó. Nên hiểu theo nghĩa phái sinh Đường thi là một thể loại thơ cũng là
hợp lí.
1.2. Đặc điểm của thơ Đường luật
Thơ
Đường luật ra đời trên cơ sở những tiền đề về kinh tế, tư tưởng và văn học. Có
thể nói chính sự pháp triển về kinh tế, sự tự do về học thuật tôn giáo và sự
vận động không ngừng của hệ thống văn chương đã đem đến sự cường thịnh của văn
học đời Đường. Hơn nữa triều Đường đã chú trọng phát triển chế độ khoa cử, quy
định lấy thơ phú để chọn kẻ sĩ. Vì thế Nho sĩ bồi bổ tài văn chương, sáng
tác thơ văn đủ niêm luật để ứng thí. Ngoài ra, thời kì này phong trào dịch
thuật kinh Phật rất phát triển, các nhà dịch thuật dùng ngôn ngữ bạch thoại
đương thời để dịch kinh phật từ tiếng Ấn Độ sang tiếng Trung Quốc, làm cho hệ
thống ngôn ngữ phong phú đầy đủ hơn. Sự giàu có về ngôn ngữ đủ sức diễn đạt
những ý vị sâu sa và những cấu tứ lạ lẫm trong thơ Đường.
Phong cốt và hứng kí là hai khái niệm dùng để diễn đạt đặc trưng về nội
dung của thơ Đường luật. Phong cốt thơ Đường lấy cứng cỏi mạnh mẽ của Hán
Ngụy bỏ đị phong kí suy đồi thời Lục Triều. Có người nhận xét phong cốt
của Đường thi là “tinh thần lạc quan sẵn
có của người đời Đường kết hợp với tính cách anh hùng trong văn học Kiến An và
truyền thống tinh thần lí tưởng từ Khuất Nguyên trở đi”. Hứng kí nghĩa là
tỉ hứng kí thác, thủ pháp của thi nhân dùng tỉ hứng để kí thác hoài bão chính
trị của mình (gọi tắt là tỉ hứng). Hứng ký thơ Đường đã tiếp thu và thể hiện
quan niệm “mĩ thích tỉ hứng” của truyền thống, coi trọng tác dụng phản ánh hiện
thực cuộc sống, đặc biệt là nêu lên nỗi khổ và các giải thoát u phẫn trong lòng
nhân dân. Tuy nhiên có sự đổi mới về phương thức thể hiện, vận dụng thủ pháp
“trực trần kì sự” của thể phú nên lời thơ cứng cỏi sắc bén.
Thanh điệu và từ chương là yếu tố cấu thành về hình thức của Đường thi.
Thanh luật Đường thi là sự kế thừa và phát triển hệ thống thanh luật của thơ ca
thời Tề Lương. Theo những ghi chép trong “thơ ca bát bệnh” của Thẩm Ước ta thấy
thơ ca thời Tề Lương chia thanh liệu thành 4 loại “bình, thượng, tứ,
nhập” tuy chặt chẽ trong từng liên, từng câu nhưng trong lỏng lẻo giữa các
liên, và có phần rườm rà khó nhớ. Cách lưỡng phân thanh điệu thành bằng
và trắc cùng với những quy định chặt chẽ về niêm luật tạo thành một phương thức
quy phạm hóa tuy có phẩn ngặt nghèo nhưng lại thuận tiện trong học tập và nắm
vững. Thơ Đường có sự biến hóa linh động trong tổ chức cú pháp. Sử dụng phổ
biến hình thức đảo trang, tỉnh lược mất đi trật tự lôgic của tản văn, câu thơ
trở nên cô đọng hàm xúc hơn. Ngôn ngữ Đường thi vừa chất thực vừa cứng cỏi, vừa
thẳng thắn vừa sát thực. Nó mất đi dạng âm tiết tự nhiên cái gọi là ngôn ngữ
đời thường, những hư từ không còn xuất hiện trong văn thơ nữa. Nó cũng không
phải là ngôn ngũ bóng bẩy, trau truốt của thơ ca thời Nam Bắc Triều mà là ngôn
ngữ tinh tế, được lựa chọn kĩ lưỡng hết sức tự nhiên chứ không hề sống sượng.
Nói chung, trong thơ Đường ta thấy lại phong kí lãng mạn nhưng cũng giàu tính
hiện thực của Kinh thi và Li Tao, có yếu tố trữ tình, tự sự của thơ ca thời
Hán, Lục Triều, có sự phong phú về nội dung phản ánh và sự phát triển của thơ
ca thời Ngụy Tấn. Sự dung hợp đầy đủ những yếu tố đó trong thơ ca của một thời
đại là lí do thơ Đường được tôn vinh là di sản đặc sắc trong nền văn học trong
nước và thế giới.
1.3. Những tiền đề cho sự tiếp
nhận Đường thi của Nguyễn Du và Hồ Chí Minh
1.3.1. Những tiền đề cho sự tiếp nhận Đường thi của Nguyễn Du
- Sự tương đồng về thời
đại: Thời đại nhà Đường có nhiều cuộc chiến tranh phi nghĩa, những cuộc chiến
tranh biên tái, khai biên, gây chiến dị tộc còn thời đại Nguyễn Du sống là thời
kỳ chế độ phong kiến đã mục ruỗm, có nhiều cuộc nội chiến giành quyền lực giữa
hai tập đoàn Trịnh - Nguyễn, các cuộc chiến tranh chống Xiêm La, Mãn Thanh.
- Nguyễn Du là một trí
thức phong kiến, là người của “cửa Khổng sân Trình”.
- Bản thân
Nguyễn Du đã từng công nhận ảnh hưởng của Đỗ Phủ đối với bản thân mình. Ông đọc
thơ Đỗ Phủ cả đời “Bình sinh bội phục vị
thường ly” (Trọn đời khâm phục, dám đơn sai – Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ), đến cả trong đêm ngủ cũng thường mơ thấy Đỗ
Phủ “Mộng hồn dạ nhập Thiếu Lăng thi” (Hồn thơ Đỗ Phủ mộng khuya đầy – Y nguyên
vận ký Thanh Oai Ngõ Tứ Nguyên). Trong toàn bộ sáng tác của Nguyễn Du ta đều
thấy phảng phất hơi thở của Đỗ Phủ.
1.3.2.
Những tiền
đề cho sự tiếp nhận Đường thi của Hồ Chí Minh
Tập
thơ Nhật ký trong tù được viết bằng
chữ Hán. Điều này không có gì là lạ. Sinh ra trong một gia đình nhà nho, được
học chữ Hán từ nhỏ lại tiếp thu nền văn hóa chịu ảnh hưởng của Hán học, Hồ Chí
Minh rất thông thạo chữ Hán. Hơn nữa, khi viết Nhật ký trong tù, Người đang bị giam cầm trong nhà tù Tưởng Giới
Thạch ở Trung Quốc nên việc sử dụng chữ Hán, một thứ chữ hàm súc về ý nghĩa để
sáng tác thơ là điều dễ hiểu.
CHƯƠNG 2: ẢNH HƯỞNG CỦA ĐƯỜNG THI ĐẾN SÁNG
TÁC CỦA NGUYỄN DU
Việt Nam và Trung Quốc, hai quốc gia được đánh giá là những nước có nền văn hóa giàu bản sắc. Trong dòng
chảy của lịch sử, chúng đã có những mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau, có
ảnh hưởng tiếp xúc, qua lại lẫn nhau trên nhiều phương diện, trong đó có văn
học. Quan hệ văn học Việt – Trung thời trung đại là sự thâm nhập của nền văn
học Trung Hoa vào thế giới văn học Việt. Qua hàng ngàn năm Bắc thuộc, lịch sử
đã chứng minh rằng: Hệ thống văn tự chữ Hán, lối sống, phong tục, tập quán của
cư dân nông nghiệp lúa nước lưu vực các con sông lớn Trường Giang, Hoàng Hà,
sông Hồng có những nét tương đồng. Thực tế đã cho thấy, văn hóa, văn học Việt
Nam chịu ảnh hưởng sâu đậm của nền văn hóa, văn học Trung Hoa trên nhiều phương
diện như: thể loại, ngôn ngữ, đề tài, kết cấu, cảm hứng sáng tác, tư tưởng thẩm
mỹ. Trong đó không thể không nhắc đến sự ảnh hưởng của thơ Đường đến văn học
Việt Nam, đặc biệt là văn học trung đại. Nói đến văn học Việt Nam thời trung
đại, ta thấy nổi bật lên là Nguyễn Du (1765 – 1820) – đại thi hào dân tộc, danh
nhân văn hóa thế giới. Ông đã để lại một di sản quý báu cho văn học nước nhà,
trong đó có kiệt tác bất hủ là Truyện
Kiều. Ngoài ra, Nguyễn Du còn có Thác
lời trai Phường Nón, Văn tế sống hai cô Trường Lưu, Văn tế thập loại chúng sinh
và ba tập thơ viết bằng chữ Hán, đó là Thanh
Hiên thi tập, Bắc hành tạp lục, Nam trung tạp ngâm. Ba tập thơ này gắn liền
với ba chặng đường sáng tác của Nguyễn Du. Thơ ông chịu ảnh hưởng của Đường
thi, đặc biệt trong toàn bộ sáng tác của Nguyễn Du, ta đều thấy phảng phất hơi
thơ của Đỗ Phủ. Nguyến Du và Đỗ Phủ sống ở hai thời đại cách xa nhau cả gàn
năm, nhưng độc giả ngày nay vẫn nhận thấy trong thơ của hai đại thi hào có những
nét tương đồng về chủ đề, nội dung, cảm hứng cũng như hình thức, thể loại. Vậy ảnh hưởng của Đường thi nói chung
và Đỗ Phủ nói riêng đối với Nguyễn Du được thể hiện như thế nào trong thơ chữ
Hán và chữ Nôm của ông?
2.1. Ảnh hưởng
Đường thi đối với thơ chữ Hán của Nguyễn Du
2.1.1. Ảnh hưởng
Đường thi đến thơ chữ Hán Nguyễn Du ở góc nhìn nội dung
Về mặt này Nguyễn Du có thể viết về
nhiều đề tài nhưng dưới đây là những đề tài xuất hiện nhiều nhất. Sáng tác của
Nguyễn Du có những nét ảnh hưởng từ thơ Đường, đặc biệt là Đỗ Phủ.
2.1.1.1. Hệ thống đề tài cơ bản
- Giống: Những nhà thơ Đường sử dụng đề
tài hết sức rộng rãi, đề tài xã hội, thiên nhiên, lịch sử và cá nhân, đề tài về
chiến tranh, đề tài về cuộc sống của những con người trong xã hội. Ngòi bút thi
nhân đó luôn soi vào tất cả mọi nơi, xuống phố và chốn cung đình u ám cũng như
vào giữa quần chúng nhân dân. Cũng như thế, đề tài trong thơ Nguyễn Du cũng bao
hàm một phạm vi bao la rộng lớn.
- Khác: Ở Nguyễn Du, đề tài trải rộng. Từ
sự suy vi của thế vận, sự biến thiên của núi sông cho đến những sự vật, hiện
tượng bé nhỏ như: con sâu, con kiến, ngọn cỏ, nhành hoa.... Ông đưa cả những
thứ tầm thường, nhỏ bé vào thơ mà theo thơ Đường nó không hợp với thể loại thơ
cao quý này. Theo ông không có đề tài nào tầm thường mà chỉ có nhà thơ tầm
thường. Những vật tầm thường nhất cũng là đề tài của thơ ca. Trong ông thường
lấy một số đề tài chính sau:
a. Hoài cổ và vịnh sử
- Giống: Hoài cổ là một đề tài khá phổ biến trong thơ Đường, hầu như nhà nào cũng có
bài viết về về nội dung này, những bài thơ đó gián tiếp bộc lộ nỗi buồn đau, lo
lắng của thi nhân cho sự suy vong của thời thế, ca ngợi và luyến tiếc những
nhân vật nổi danh trong quá khứ: Tống Ngọc, Minh Phi, Gia Cát... Đề tài hoài cổ vịnh sử tạo nên những bài thơ nổi tiếng như: Vịnh hoài cổ tích, Vũ Hầu miếu.. (Đỗ Phủ), Hoàng Hạc Lâu (Thôi Hiệu), Tĩnh dạ tư (Lý Bạch)...
Đề tài hoài cổ có mặt và ẩn hiện hầu khắp
các tập thơ chữ Hán của Nguyễn Du. Ông đau xót vì những giá trị tinh thần cũ đã
bị đổi thay, đảo lộn trong những bài như: Vị
Hoàng Doanh, Ninh Công thành, Pháo đài... Ông luyến tiếc các sự kiện lịch sử và các
triều đại lịch sử, cùng hình bóng Thăng Long dĩ vãng. Nỗi tiếc đó được thể hiện
trong các bài: Điếu La Thành ca giả, Long Thành cầm giả ca,
Ngô gia đệ cựu ca cơ, Thăng Long, Ngẫu hứng, Mộng đắc thái liên...
Cổ
kim vị kiếm thiên niên quốc,
Hình
thế không lưu bách chiến danh
Vị Hoành Doanh
(
Vương triều khó giữ vững nghìn đời,
Còn
chăng trăm trận để người đời sau)
-
Khác: Trong đề tài vịnh sử, ngoài việc viết về
các sự kiện và nhân vật lịch sử của dân tộc, phần lớn Nguyễn Du viết về một loạt các nhân vật lịch sử Trung Quốc, nhân đi qua các di
tích của họ. Trong Bắc hành tạp lục có 50 bài vịnh sử (trong tổng số 131
bài): Tương Đàm điếu Tam Lư đại phu, Dự Nhượng chùy
thủ hành, Sở Bá Vương mộ, Độ hoài hữu cảm Hoài Âm hầu tác,....
b. Đề
tài chiến tranh loạn lạc
- Giống: Trong
thơ Đường và thơ chữ Hán Nguyễn Du, ta thấy đều
có những bài thơ viết về chiến tranh,
thông qua đó thể hiện thái độ cảm thông, thương xót của các nhà thơ đối với số
phận của nhân dân trong hoàn cảnh chiến tranh loạn lạc ấy.
- Khác: Thơ Đường thời kỳ này chủ yếu viết về các
cuộc chiến tranh phi nghĩa, là những bài thơ biên tái, kể về các cuộc chiến
tranh khai biên, gây chiến với dị tộc, đời sống nơi biên ải đọa đày: Binh xa hành, Viên lại Tân An, Viên lại huyện
Thạch Hào...
Nguyễn
Du cũng viết về chiến tranh, nhưng thời đại ông sống không có các cuộc chiến
tranh khai biên, phi nghĩa như đời Đường mà chỉ là những cuộc nội chiến tranh
dành quyền lực giữa hai tập đoàn Trịnh – Nguyễn và các cuộc khởi nghĩa nông dân
nổi dậy chống sưu thuế, đòi quyền lợi cá nhân, đánh đổ chính quyền thối nát Trịnh-
Nguyễn ở cả Đàng Trong và Đàng Ngoài và các cuộc chiến tranh chống bọn Xiêm La,
Mãn Thanh. Cho nên thơ chữ Hán của Nguyễn Du không có các bài réo rắt não ruột
như thơ Đỗ Phủ, hay một số nhà thơ Đường
khác. Ví như bài Thuật hoài.
Chiến
tranh trên đất nước Việt Nam lúc này là các cuộc chiến tranh chính nghĩa, đòi tự
do, cơm áo và hòa bình, phê phán hiện thực đen tối của xã hội phong kiến đương
thời, đó là các cuộc chiến tranh, nội chiến, các cuộc khởi nghĩa nông dân. Chẳng
hạn bài thơ Pháo đài trong Nam Trung tạp ngâm. Hay nhiều bài trong tập “Bắc hành tạp lục” của
ông cũng nói về chiến tranh, chủ yếu là nói về phân tranh Trịnh - Nguyễn.
2.1.1.2. Giá trị nhân văn và giá trị hiện thực
a. Giá
trị nhân văn
- Giống: Trong thơ Đường và thơ Nguyễn Du, ta thấy cũng có nhiều bài thơ thương cảm cho số phận con
người, những thân phận nhỏ bé, một số nhà thơ đứng về phía dân đen nói lên tiếng nói thống khổ của họ, nhìn thấy nỗi đau xót của
mình trong nỗi khổ đau của nhân dân lao động, cái khổ không còn nằm trong lớp
người mà nằm trong kiếp người. Ví như cái nhìn trong bài Bài
hành vác củi
Đất Quỳ Châu có cô đầu điểm tuyết,
Bốn
mươi năm chưa biết chuyện chồng con.
Thời
loạn ly càng không thể kết hôn,
Suốt
một kiếp giận hờn, than thở mãi.
( Đỗ Phủ)
Và
bài Nắng dữ của Nguyễn Du tràn ngập tinh thần nhân đạo bao la.
- Khác:
Đối tượng Nguyễn Du tả là số phận hẩm hiu của những con người dưới
đáy xã hội, sự cơ cực của con người,
của những kiếp người lầm than mà thơ Đường không đề cập tới.
Ông thương một con ngựa già bị ruồng bỏ, một bông hoa lìa cành hay cái cái chết
của người đào hát. Nhân vật trong thơ ông là một anh đẩy xe, một xác người chết
đói, một ông già mù hát rong, mẹ con người hành khất. Ví dụ như Thái bình mại
ca giả, Sở kiến hành,… Thơ
chữ Hán của Nguyễn Du đã xóa đi sự cách biệt giữa các tầng lớp, đi xuống tận
dân đen và nâng họ lên thành chủ nhân của xã hội. Những con người mà giai cấp
thống trị xem là súc vật lại hiện lên trong đại thì hào mang đầy đủ ý thức về
giá trị và nhân cách của mình.
2.1.1.2.2. Giá trị hiện thực
- Giống: Nhân
dân trong nhiều bài thơ Đường khổ
vì chiến tranh khai biên. Vua chúa vơ vét cho thỏa lòng tham, mặc cho nhân dân
đau thương chết chóc. Chứng kiến cảnh đó nên thơ Đường vạch trần tội ác của bọn
vua chúa, quan lại. Đối tượng mà họ châm biến là vua quan, cung phi, quân phiệt
địa phương và bọn bồi bút vô liêm sỉ. Bên cạnh đó, các nhà thơ mong ước sao cho
người dân có cơm ăn, áo mặc, con cái được học hành:
Chờ
triều đình sửa kỷ cương
Kinh
đô hy vọng có đường đổi thay
(Ở
Quỳ Châu bộc lộ nỗi lòng)
Trung
thành với chủ nghĩa hiện thực, Nguyễn Du đã khắc họa một cách tinh tế và sinh
động những mâu thuẫn xã hội không thể hòa hoãn nổi giữa hai thế lực đối lập.
Một bên là những người nghèo khổ, tài sắc bị hắt hủi và bên kia là bọn giàu có,
quyền thế. Sự giàu sang của bọn người quyền quý là nguyên nhân của sự sa cơ,
chết chóc, thất bai của lớp lớp dân nghèo trong xã hội.
Tinh
thần hiện thực trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du và thơ Đường nói chung là cái
nhìn nghiêm khắc đối với các sự kiện lịch sử, phán đoán chính xác và nhanh nhạy
mọi vấn đề từ góc độ “dạ dày” của người lao động. Đó là tiếng nói chống áp bức,
bất công, đòi hòa bình, cơm áo, có ảnh hưởng sâu rộng trong mọi tầng lớp nhân
dân lúc bấy giờ.
- Khác:
Hiện thực trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du là hiện thực vận động. Ông đánh giá
nền văn hóa Trung Hoa từ cổ đại đến Đường, Tống. Các triều đại và quyền lực vua
chúa đều trôi qua, điều còn lại duy nhất là con người và nhân văn. Ông coi
trọng và đánh giá cao các nhân vật văn hóa, anh hùng hào kiệt của nền văn minh
nhân loại, mà sao giờ đây khi đi qua các nơi ghi chiến công của các đế vương,
khanh tướng, công hầu, ông chỉ thấy gai góc mọc đầy, gió lạnh hắt hiu:
Hút
mắt lòng đau nhìn chẳng thấy
Gió
thu lá rụng vượt Nguyên Tương!
(Tương Đàm điếu Tam Lư đại phu 1)
Ông
mỉa mai những kẻ âm mưu hoặc trực tiếp đem quân xâm lược Việt Nam:
Những
tưởng cột đồng lòe gái Việt,
Chẳng
dè xe ngọc lụy đàn con
(Giáp Thành Mã Phục Ba miếu)
Hiện thực ở đây còn là những điều mắt thấy tai nghe, thông qua đó nhà
văn giải bày tâm trạng. Ví như: Minh Giang chu phát, Thái Bình thành hạ văn
xuy địch, Sơn Đường dạ bạc... Đặc biệt là Trở binh hành, Thái Bình mại
giả ca, Sở kiến hành...
2.1.2.
Ảnh hưởng Đường thi đến thơ chữ Hán Nguyễn Du ở góc nhìn nghệ thuật
2.1.2.1.
Thể loại
Thể
loại là một phạm trụ thuộc hình thức của tác phẩm văn học, là phương tiện phù
hợp với nội dung nên thể loại mang tính quy luật. Thể loại được hình thành và
tồn tại trong quá trình phát triển của lịch sử văn học một cách tương đối ổn
định. Đó là sự giống nhau về cách tổ chức tác phẩm, đặc điểm của các hiện tượng
đời sống, tính chất của các mối quan hệ trong tác phẩm qua trình sáng tác của
mình. Đường thi gồm các thể loại thơ thuộc hai nhóm là Cổ thể và Kim Thể. Cổ
thể gồm Cổ Phong và Nhạc phủ. Kim thể (hay
Cận thể) gồm Luật thi và Tứ tuyệt.
Khi
phân loại người ta chia làm sáu thể: Ngũ ngôn cổ thể, Thất ngôn cổ thể, Ngũ
ngôn luật thi, Thất ngôn luật thi, Ngũ ngôn tuyệt cú, Thất ngôn tuyệt cú. Trong
đó, Ngũ ngôn cổ thể và Thất ngôn cổ thể gọi là thơ Cổ Thể, còn bốn thể sau gọi
là Kim (cận) thể. Nguyễn Du đã sử dụng các thể thơ thuộc hai nhóm là Cổ Thể và
Kim thể.
a.
Thơ Cổ thể
Thơ Cổ thể là loại thơ không có luật nhất định, không hạn định số câu,
số chữ trong bài, thường là có năm đến bảy chữ nhưng cũng có khi giao động, co
giãn xung quanh năm đến bảy chữ đó. Cách giao vần thì rất linh hoạt, có khi cả
bài thì chỉ có một vần (độc vần) như bài Tái du Tam Điệp sơn:
Vân
thế sơn Tam Điệp
Thiên
nhai khách tái du
Nhân
trung thu đại địa,
Hải
ngoại kiến ngư chu.
Trướng
tĩnh phong loan sấm,
Thiên
hàn thảo mộc thu.
Hành
nhân hồi khán xứ,
Vô
ná cố hương sầu.
Trong các tập thơ của Nguyễn Du cũng có nhiều bài thơ được làm theo thể
thơ này. Chẳng hạn trong tập “Bắc hành tạp lục” có 8 bài thất ngôn cổ
thể, ngủ ngôn cổ thể, 18 bài trường thiên (thất ngôn, ngũ ngôn, đoản cú). Ví dụ:
Long thành cầm giả ca, sở kiến hành...
b.
Kim thể
Toàn Đường thi gồm 48.900 bài thơ thì phần lớn được làm
theo thể loại này. Đây là thể thơ phù hợp với việc thể hiện tâm tình con người,
cũng như sự tương giao giữa ngoại cảnh và nội tâm, con người và thế giới.
Nguyễn Du rất thành công ở thể thơ này, bởi nó đề cập được nhiều vấn đề về nhân
sinh thế thái, thế sự, cuộc sống sinh hoạt cá nhân, tình cảm mãnh liệt và cả
những tâm sự u buồn. Trong tập Bắc hành tạp lục có 76 bài thất ngôn bát
cú, 11 bài ngũ ngôn bát cú, 18 bài thất ngôn tứ tuyệt. Ví dụ: Tự thán, Đồng
Lung giang, Đêm nằm ở Mạc Phủ, Quỳnh Hải nguyên tiêu, Khúc giang 1...
Thơ Cổ thể và Kim thể trong sáng tác của Nguyễn Du chủ yếu là thể hiện
tình cảm của con người vũ trụ. Khi chú trọng phản ánh hiện thực thì Đỗ Phủ và
Nguyễn Du sử dụng thơ cổ thể với những cảm xúc mạnh mẽ và phong phú. Thơ luật
lại thiên về việc thể hiện những cảm xúc, tâm tình lắng đọng, trầm tư mà sâu
lắng. Sỡ dĩ có điều đó là vì thơ cổ thể có dung lượng lớn, thể cách không chặt
chẽ nên có thể đi sâu khám phá những diến biến phức tạp của cuộc sống đời
thường, để phản anh nó một cách chính xác và đa dạng như chính bản thân cuộc
sống. Còn Luật thi là sản phẩm của tư duy nghệ thuật, nên rất phù hợp với việc
thể hiện tâm tình của con người vũ trụ, có khát khao hòa mình vào thế giới. Mỗi
bài thơ là một cơ thể sống bởi nó có những mối quan hệ nội tại nhất định, tác
giải thổi tâm hôn mình vào đó và khơi lên ở người đọc một trạng thái tình cảm
tương ứng với lòng mình. Đó là sự giao thoa giữa con người và thế giới để con
người hòa nhập tâm hồn mình, cho nên Luật thi vẫn chiếm đa số trong thơ thi
hào.
2.1.2.2.
Thi tứ
Thi tứ là hạt nhân kết cấu của hình tượng thơ. Nó là hạt nhân trung tâm
của quá trình sáng tác nên nó chi phối tất cả các yếu tố khác, nó mang đến cho
bài thơ một linh hồn, một trật tự để mỗi bài thơ là một nỗi niềm rung động được
phô diễn ra bằng phương tiện ngôn từ. Thi tứ hay còn gọi là tứ thơ cũng chính
là một tư tưởng đã bão hòa cảm xúc, tồn hiện dưới dạng hình tượng nhất định.
Về
mặt thi tứ Nguyễn Du chịu ảnh hưởng nhiều nhất từ Đỗ Phủ, có lẽ do sự tương đồng về cuộc đời, thời
đại, tư tưởng... Thơ chữ Hán của Nguyễn Du cũng như thơ Đường, nhìn trên tổng
thể thì mỗi bài có một tứ thơ độc đáo, ít lặp lại, nhưng xét trên toàn bộ sự
nghiệp sáng tác thì thấy nổi lên một số dạng tứ thơ như sau:
a.
Tứ thơ tỏ chí – hoài cổ
- Tứ thơ phổ biến của loại thơ này được Nguyễn
Du và Đỗ Phủ khai triển dựa trên sự đối lập nhưng đồng nhất giữa nhân vật trữ
tình với các đại lượng lớn của vụ trụ như: sông, núi, mấy, nước, xưa, nay, sau,
trước. Trong mối tương quan ấy con người như được phóng to lên để có khả năng
giao cảm với đất trời.
- Tỏ chí trong thơ Nguyễn Du là sự bế tắc, cô
đơn, bất lực với đồi và tìm mối giao cảm với trời:
Non
cao nước chảy còn đâu nhỉ?
Góc
biển chân mây gặp dễ gì.
Vành
nguyệt trời nam xin để lại,
Soi
đôi lòng mãi lúc đêm về.
(Lưu biệt Nguyễn Đại Lang)
Bài Con cô nhạn của Đỗ Phủ cũng là tinh cảnh cô đơn, bế tắc của
kẻ lạc loài:
Nhạn
lạc không ăn uống,
Bay
kêu tiếng nhớ đàn.
Ai
thương người chiếc bóng,
Mất
hút giữa mây ngàn.
Mòn
trông còn thấp thoáng,
Xót
lắm tiếng mơ màng.
Quạ
đồng sao hiểu được,
Quàng
quạc tiếng kêu than.
Vì cô đơn, bế tắc và buồn đau nên thi nhân thường hay hoài cổ, hoài cổ
để tìm sự an ủi cho cõi lòng mình, đi ngược dòng quá khứ tìm về một thời huy
hoàng đã qua đi. Điều này thể hiện rõ hơn cả là trong thơ Nguyễn Du:
Vị Giang doanh có Vị Hoàng,
Trời
xanh cây lá liền hàng nhấp nhô.
Chiều
tà ngựa uống bến xưa,
Đồng
hoang, đêm vắng đóm ra loạn trời.
Vương
triều khó vững nghìn đời,
Còn
chăng trăm trận để người ngày sau.
Xóm
phù hoa chẳng nhìn đâu,
Xanh
xanh Tam Điệp một màu chẳng phai.
Vị
Hoàng doanh
- Hoài cổ trong thơ Đỗ Phủ là những bài thơ
mang nặng nỗi đau đời, ca ngợi các bậc anh tài, quân vương trong quá khứ nhưng
cũng đồng thời nhìn thẳng vào cuộc sống khổ cực cả nhân dân lao động, lo cho
vận mệnh của quốc gia, dân tộc qua những việc quốc gia, đại sự nên thơ Đỗ Phủ
có sự kết hợp tuyệt với giữa nghệ thuật và chính trị, thể hiện lòng yêu nước
sâu sắc:
Gió
gấp trời cao vượn nỉ non,
Bến
trong cát trắng lượn chim cồn.
Rào
rào lá trút rừng cây thẳm,
Cuộn
cuộn sông về sóng nước tuôn.
Thu
quạnh nghìn khơi lòng khách não,
Đài
cao trăm bệnh chiếc thân mòn
Gian
nan khổ hận đầu thêm bạc,
(Đăng Lâu)
b.
Tứ thơ về tâm trạng buồn bã, cô độc
- Buồn cho đời người ngắn ngủi, bế tắc, mất
phương hướng, buồn cho thời đại nhố nhăng, loạn lạc, buồn vì tình người, tình
đời ngang trái, dối gian. Thơ chữ Hán của Nguyễn Du và Đỗ Phủ đã thấm đẫm một
nỗi buồn đau tê tái – Một mùa thu rất dài không có ánh nắng và màu mây. Mùa thu
vốn dĩ đã buồn của lá vàng rôi và gió thu hiu hắt, của khuôn mặt tư lự, không
còn đứng ở vị trí độc lập mà chen chân vào, quan sát và miêu tả, để thực hiện
và nỗi lòng đau:
Tráng
sĩ bạc đầu ngửa mặt than:
Hùng
Tâm, Sinh Kế, mộng đều tan,
Xuân
Lan, Thu Cúc thôi trò hão,
Đông
rét, hè thiêu, cướp tuổi xuân..
(Tạp thi)
Mùa thu đối với Đỗ Phủ là một nỗi niềm xót xa trước cảnh thu bi thương,
hoành tráng nhưng cũng đầy ắp âm thanh của cuộc sống đời thường:
Lác
đác rừng phong hạt móc sa,
Ngàn
non hiu hắt khí thu lòa.
Lưng
trời sóng gợn lòng sâu thẳm,
Mặt
đất mây đùn cửa ải xa.
Khóm
cúc tuôn thêm dòng lệ cũ,
Con
thuyền buộc chặt mối tình nhà.
(Thu hứng 1)
- Tứ thơ buồn bã, cô độc bàng bạc hầu khắp
thi phẩm của hai thi hào Nguyễn Du và Đỗ Phủ, là nỗi buồn đau, vất vả, đắng cay của cuộc sống đời thường, bởi hai
ông cứ theo mãi để đi tìm “ mình” một cách mải miết nhưng hình như càng đi thì
càng vô vọng, bế tắc, quẩn quanh.
Tóm
lại, Thơ chữ Hán Nguyễn Du có một vị trí quan trọng trong lịch sử văn học quốc
gia, dân tộc, nói riêng trong nền văn học trung đại thế giới nói chung. Mặt
khác, chọn việc nghiên cứu so sánh thơ Đường và thơ chữ Hán của Nguyễn Du,
chúng tôi còn muốn tìm ra những nét ảnh hưởng cũng như sáng tạo nhằm góp phần
chứng minh mối quan hệ, giao lưu về văn hóa, văn học của hai quốc gia Việt Nam
và Trung Quốc.
2.2. Ảnh hưởng của thơ Đường vào thơ Nôm
của Nguyễn Du (tiêu biểu là Truyện Kiều)
2.2.1 Nội dung
2.2.1.1. Hệ tư tưởng Nho, Phật, Lão giáo
trong Truyện Kiều
a. Triết
lí nhân sinh
a1. Tài mệnh tương đố
- Giống: Tài mệnh ghét nhau mà Nguyễn Du
nói là dịch từ cổ ngữ của Trung Quốc “Tài
mệnh tương đố”. Tài là năng lực vốn có của con người. Mệnh có nguồn gốc Nho
giáo. Nho giáo cho rằng, mỗi người sinh ra đều có mạng số, cái phúc phần mà
trời ban gọi là thiên mệnh. Mệnh là cái phần số của con người được quy định ở
giới tối cao không thể thay đổi, Nho giáo gọi là định mệnh. Như vậy, mệnh có
thể là phần phúc cũng có thể là bất hạnh.
- Khác: Cũng bàn về chữ “mệnh” nhưng chữ
“mệnh” mà Nguyễn Du sử dụng chỉ giới hạn ở nghĩa là cái phần phúc mà con người
được hưởng. Ở xã hội phong kiến suy vi thối nát thời Nguyễn Du, thuyết tài mệnh
tương đố như là một chân lí. Con người tin tưởng nó với một thái độ bất mãn và
bất lực trước cuộc đời.
Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.
Nguyễn
Du đã cụ thể hoá cái thuyết bù trừ của Lão Tử thành tài mệnh tương đố. Tuy
nhiên với Lão giáo, tạo hoá bù trừ chỉ là một triết lí rút ra từ sự suy nghiệm
cuộc sống, từ sự thông đời hiểu thế của một triết gia. Còn với Truyện Kiều, tài mệnh tương đố như một
học thuyết mà Nguyễn Du cần phải chứng minh.
Cuộc đời Thuý Kiều là một minh chứng cụ thể sinh động cho thuyết ấy. Đó
không chỉ là tài mệnh tương đố mà còn hồng nhan bạc phận, là sự ganh ghét của
tạo hoá. Tạo hoá ganh với sắc đẹp của nàng, vì nàng có “làn thu thuỷ, nét xuân
sơn” cho nên “hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”. Còn với cái tài của nàng
thì:
Thông minh pha sẵn tư trời,
Pha nghề thi hoạ, đủ mùi ca ngâm.
Cung, thương, làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt cầm một trương.
Nhưng trong cái tài ấy thì lại chất chứa “Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”. Dường như với Nguyễn Du, tài
hoa – bạc mệnh là hai mặt của một trang giấy, nó không tách rời nhau. Cho nên,
ông thường viết những câu:
Rằng: Hồng nhan tự thuở xưa,
Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu.
Thế mới biết, nếu Lão Tử dùng thuyết tạo hóa bù trừ để an ủi những tâm
hồn đau khổ từng chịu những bất công thì Nguyễn Du cụ thể hoá cái thuyết bù trừ
ấy thành “hồng nhan bạc mệnh”, “tài mệnh tương đố” để gợi lên lòng trắc ẩn, nỗi
thông cảm ở con người và phê phán những bất công trong xã hội.
Chính vì thế, ta có thể kết luận rằng, nhìn ở góc độ nào đó thuyết tài
mệnh tương đố, hồng nhan bạc phận mà Nguyễn Du nêu ra là xuất phát từ thuyết
tạo hoá bù trừ, âm dương biến đổi của Lão giáo nhưng Nguyễn Du đã cảm nhận và
giải thích nó bằng quan niệm rất riêng. Nhà thơ đã nhận ra cuộc đời là thế.
Cuộc đời là sự tranh quyền đoạt thế, lòng ích kỉ của con người làm cho họ sẵn
sàng hãm hại nhau, mà người có tài luôn là cái gai trong mắt của những kẻ tiểu
nhân. Một xã hội phản động luôn tìm cách loại trừ những bậc tài năng. Nghĩa là,
nếu Lão Tử xem những bất công ở đời là một quy luật thì Nguyễn Du xem hồng nhan
bạc phận, tài mệnh tương đố là một tai hoạ mà nạn nhân thường là người phụ nữ.
Đó là giá trị nhân đạo của tác phẩm.
a2. Định mệnh
- Giống: Ở khía cạnh nhất định, các tác
gia thời Đường và Nguyễn Du đều lý giải các vấn đề trong tác phẩm của mình bằng
thuyết định mệnh của Nho gia. Đây cũng là một học thuyết bất công mà con người
tỏ ra bất lực:
Bắt phong trần phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần thanh
cao.
Nếu
đi tìm tư tưởng định mệnh ở Nguyễn Du thì không đâu bằng tìm ở Truyện Kiều. Như đã nói thuyết “tài mệnh
tương đố” không bao trùm hết số phận các nhân vật trong Truyện Kiều. Thế giới
của Truyện Kiều là thế giới của những con người có tài: tài hoa, tài trí dũng,
tài trí xảo. Nhưng không phải ai có tài cũng đều bất hạnh, như: Kim Trọng, đại
thần Hồ Tôn Hiến, Vương Quan, Thuý Vân đều là những kẻ có tài, người có sắc
nhưng số phận không nghiệt ngã đối với họ. Nguyễn Du đã lí giải điều này dựa
trên thuyết định mệnh của Nho gia.
Như
ta biết, ảnh hưởng tư tưởng định mệnh trong Truyện Kiều còn rất mạnh. Và dường
như với quan niệm Nguyễn Du, phụ nữ là người chịu sự áp đặt khắt khe nhất của
định mệnh:
Đau đớn thay phận đàn bà,
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời
chung.
Từ Đạm Tiên đến Thuý Kiều và cả Thuý Vân cũng chịu sự chi phối của định
mệnh. Nhưng khác nhau là Đạm Tiên và Thuý Vân là những người thuận theo mệnh mà
sống, còn Thuý Kiều là người luôn chống lại định mệnh.
Định mệnh được Nguyễn Du đưa ra nhằm nói lên sự bất lực của con người cá
nhân trong xã hội phong kiến, tố cáo sự tàn nhẫn của xã hội đối với hạnh phúc
của con người. Đó là giá trị hiện thực của tác phẩm.
- Khác: Xét thái độ của Nguyễn Du đối với
tư tưởng định mệnh thì lại thấy ông rất mâu thuẫn. Lúc thì ông cho rằng mọi
việc trời định sẵn, con người chỉ việc tuân theo, lúc thì lại bảo rằng con
người không hoàn toàn bất lực trước số mệnh vì “có trời mà cũng có ta”, trời
quyết định cuộc đời ta, nhưng ta cũng quyết định không ít đến số mệnh của mình.
Dù số trời bắt ta bạc mệnh nhưng ta cố hành thiện giúp đời trời sẽ mang lại
phúc lành đến cho ta. Như vậy, định mệnh mà Nguyễn Du nêu ra không phải là quy
luật bất biến như trong tư tưởng Nho gia mà nó đã chịu sự ảnh hưởng của thuyết
nhân quả nhà Phật. Tuy nhiên, định mệnh là hạn chế trong tư tưởng Nho gia cũng
là hạn chế trong tư tưởng Truyện Kiều.
a3. Luật nhân quả – triết lý về sự công
bằng của nhà Phật
- Giống: Các nhà thơ Đường có sự vận dụng
tư tưởng này trong sáng tác của mình. Nghiệp theo nhà Phật là những việc làm
trước kết thành cái quả sau, nghiệp tương đương với chữ nhân trong nhân quả. Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng đã vận
dụng cái thuyết này để giải thích toàn bộ cuộc đời vui khổ của nàng Kiều.
Nguyễn Du đã giải thích được tại sao Kiều lại phải chịu cảnh “hồng nhan bạc mệnh”. Như đã nói, đó là
do định mệnh. Nhưng định mệnh chỉ nêu lên kết quả mà không giải thích được
nguyên nhân của điều bạc mệnh kia là do đâu. Nguyễn Du đã bổ khuyết vấn đề này
bằng thuyết nhân quả, nghiệp báo của nhà Phật. Căn cứ vào đấy, ông giải thích
nỗi khổ của Kiều là do chính Kiều:
Đã mang lấy nghiệp vào thân,
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời
xa.
Thế nên, kiếp sống của Kiều là để trả cái nghiệp nàng gây lúc trước. Vì
cái nghiệp nó quấn chặt Kiều nên phải chịu muôn vàn cay đắng, như Kiều không
làm lẽ mà rơi vào nhà chứa, bị Sở Khanh lừa nên phải tiếp khách làng chơi, ngỡ
được hạnh phúc bên Thúc Sinh thì lại bị Hoạn Thư hành hạ, ngỡ được vinh quang
cùng Từ Hải thì lại mang tiếng giết chồng. Đúng là cái nghiệp đã làm cho Kiều
gặp “hết nạn nọ đến nạn kia”.
- Khác: Ý nghĩa của nó không chỉ dừng lại
ở đây. Khi đem luật quả báo luân hồi vào Truyện
Kiều, Nguyễn Du còn nhằm khẳng định sự công bằng tuyệt đối của thuyết nhân
quả, đồng thời nói lên ước mơ về xã hội công bằng, công lý của con người thời
bấy giờ.
Ở Truyện Kiều, lời thề luôn có sự ứng báo. Cuối cùng, chúng cũng bị trừng
phạt, sự trừng phạt đó chính là quả báo mà họ tự gây nên. Cho nên, ở đoạn Kiều
đền ân, báo oán, ta không hề thấy cái lòng oán hận nào của Kiều mà chỉ thấy đó
là luật công bằng của tạo hoá. Sự trừng phạt kia chỉ là do ở đạo Trời:
Đạo Trời báo phục chỉn ghê,
Khéo thay một mẻ, tóm về đầy nơi!
Đúng là “lưới trời lồng lộng tuy thưa mà khó lọt”. Con người không thể
dối trời hại nhân.Thế nên, trong Truyện Kiều đoạn đền ân báo oán diễn ra là tất
yếu.
Từ cái thuyết nghiệp báo này, Nguyễn Du khuyên con người nên phấn đấu làm
việc thiện, hãy vững tin rằng “qua cơn bỉ cực đến hồi thái lai”. Và để có được
một sự bình yên tuyệt đối trong cuộc sống, con người phải biết tu tâm. Theo
Nguyễn Du, hành thiện chỉ đem đến cho con người sự tốt lành trong cuộc sống,
nhưng cái tâm ta không tịnh ta cũng sẽ mãi khổ đau.
a4. Tu tâm – Triết lý về con đường giải
thoát
Tư tưởng này gần với lối sống vô vi, ẩn dật của triết lí Lão – Trang. Ông
cho rằng con người có thể tìm được hạnh phúc ngay ở cuộc sống đời thường với
điều kiện là chúng ta phải biết tu tâm. Triết lí sống này gần với tư tưởng Nho,
Phật hơn. Giữa cái xã hội thế này, con người dù tài năng đến đâu cũng chỉ là
“con cờ” của xã hội, người có tài sắc là món hàng đắt giá của bọn bất lương.
Cho nên, Nguyễn Du đã kết luận rằng: “Chữ
tâm kia mới bằng ba chữ tài”.
Đề cao chữ tâm giữa lúc thiết chế xã hội đầy rẫy lầu xanh như một “thiên
la địa võng” cứ chực chờ giăng bẫy hạnh phúc của con người ông hy vọng nó sẽ
mang lại một giá trị nhân sinh. Đó là triết lí về con đường con đường giải
thoát – tu tâm.
Và cái nghiệp ấy so với công đức của nàng thì công đức ấy còn nhiều:
Lấy tình thâm trả nghĩa thâm,
Bán mình đã động hiếu tâm đến trời!
Hại một người cứu muôn người
Biết đường khinh trọng, biết lời
phải chăng.
Tất
cả điều này đã giải trừ nghiệp chướng của nàng. Nhờ tâm giữ giới, tâm hiếu
nghĩa, tâm từ bi mà thiện nghiệp được tạo ra, nhờ thế Kiều mới có cảnh đoàn
viên, sum vầy với gia đình và Kim Trọng.
Trải
qua 15 năm lưu lạc, chứng kiến với bao sự đời, tiếp xúc với bao hạng người,
Kiều cũng chỉ nhận ra một triết lý “ở hiền gặp lành” hay “tích thiện phùng
thiện, tích ác phùng ác”, gieo nhân gì thì gặt quả ấy. Kiều mới giác ngộ được
nỗi khổ là do ngoại giới gây nên chứ chưa thật sự tin rằng một phần là do tâm
của mỗi con người.
b. Luân lý đạo đức
b1. Hiếu
Trong xã hội phong kiến cũng như trong học thuyết Nho giáo, Phật giáo,
chữ hiếu rất được coi trọng, Nho giáo cho rằng: “Nết hiếu là điều trước tiên
của trăm nết, nết hiếu thấu đến trời thì gió mưa thuận mùa, nết hiếu thấu đến
đất thì muôn vật thịnh tốt, nết hiếu thấu đến người thì mọi phước đều đem lại”.
Cho nên, người có hiếu nghĩa rất được mọi người tôn trọng. Với Truyện
Kiều thì vấn đề này không cần phải tranh luận. Kiều là người luôn đặt chữ hiếu
lên hàng đầu. Dù Kiều rất đỗi yêu Kim Trọng, Kiều có thể thề nguyền cùng Kim
Trọng nhưng Kiều cũng không phải là người tự quyết định hôn nhân của mình. Kiều
cho rằng yêu là quyền của mình nhưng quyết định hôn nhân là quyền của cha mẹ:
Dù khi lá thắm chỉ hồng,
Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha.
Kiều đã không thể trọng tình khinh hiếu. Cho nên, khi xảy ra gia biến
Kiều đã quyết định dứt tình, bán thân để chuộc cha và em
Nàng đã nêu cao gương hiếu nghĩa. Nhưng không vì thế mà nàng trở thành
một biểu tượng của đạo đức, nghĩa là Kiều không phải là nhân vật hoàn toàn được
miêu tả bằng bút pháp lãng mạn. Kiều cũng như bao người trước ngã ba đường lựa
chọn nàng cũng băn khoăn, dằn vặt. Nhưng vì “Đau lòng tử biệt sinh ly” nên “Thân
còn chẳng tiếc, tiếc gì đến duyên”.
b2. Trung
Ở xã hội phong kiến, trong chế độ quân chủ chuyên chế, chữ trung được đề
cao tuyệt đối, “quân xử thần tử, thần bất
tử bất trung”. Đó là tư tưởng “ngu trung” nhưng lại là tiêu chuẩn tạo nên
mẫu người quân tử thời phong kiến.
Chữ trung trong Truyện Kiều là
chữ trung tuyệt đối. Kiều là người rất mực trung thành với triều đình. Chính
Kiều thừa nhận rằng Từ tuy là “đấng anh
hùng” nhưng hành động dấy binh khởi nghĩa là hành động của “tên giặc cỏ”. Hành
động ấy chỉ đem lại sự khiếp sợ cho nhân dân, bởi cuộc hành quân của họ:
Ngất trời sát khí mơ màng
Đầy sông kình ngạc, chật đàng giáp
binh.
Trong ý thức, Kiều không xem hành động của Từ là một điều tốt đẹp vì chỉ
đem đến chết chóc.
Vị vua mà Kiều tôn thờ là một vị minh quân, luôn ban bố ân đức, chăm lo
hạnh phúc cho nhân dân nên Kiều trung thành với vua là tất yếu. Và Kiều cũng
không thẹn lắm trong hành động gián tiếp hại chết Từ Hải khi thốt câu: “Xét mình công ít tội nhiều”.
Cho nên, với cái chết của Từ Hải, Kiều không những là người vô tội mà còn
lập được công. Cái công ở đây là công
“cứu muôn người” thoát khỏi nạn binh đao. Chữ trung có thể tìm thấy ở Truyện
Kiều, cũng như trong tư tưởng Nguyễn Du. Trung là sự trung thành tuyệt đối của
nhân dân đối với minh quân. Điều này cho ta suy nghĩ ngược lại, nếu vua không
đứng về phía nhân dân, không đem lại lợi ích cho dân thì sớm muộn gì cũng bị
lật đổ. Vì vậy, chữ trung ở Truyện Kiều cũng như trong tư
tưởng Nguyễn Du đã ngã ngũ
nhiều về tính nhân dân, tính quần chúng. Đó là tư tưởng tiến bộ của
Nguyễn Du và cũng có thể là kết quả mà ông thu được sau những năm sống lưu lạc
trong quần chúng.
b3. Nhân nghĩa
Đây là vấn đề không cần phải nói nhiều trong Truyện Kiều. Những nhân vật chính diện thì toàn xử sự theo nhân,
theo nghĩa. Chung Ông giúp gia đình Kiều chạy vạy, lo chuộc Vương Ông và Vương
Quan, đó là nhân. Sau khi Vương Quan thi đỗ đã cưới con của Chung Ông để trả
ơn, đó là nghĩa. Những thế lực giúp Kiều toàn là những con người nhân nghĩa.
Còn Thuý Kiều là một hiển nhiên. Kiều là
người luôn nghĩ cho người khác trước khi lo cho bản thân mình. Lo lắng cho cha
mẹ, các em đã đành, Kiều còn luôn quan tâm đến những ai có ân với mình.
b4. Tiết hạnh
- Giống: Thơ Đường và Truyện Kiều đều đưa chữ “tiết” vào tác
phẩm của mình.
- Khác: Chữ “trinh” trong thơ Đường rất
nghiêm ngặt, cứng rắn. Còn Nguyễn Du thì không, tư tưởng ông rất phóng khoáng.
Người phụ nữ vẫn có quyền yêu và tìm đến người mình yêu. Đó là tính nhân văn
trong Truyện Kiều. Nhưng người phương
Đông cũng không chấp nhận thái độ dễ dãi trong tình yêu. Chính Kiều cũng thừa
nhận điều đó:
Đã cho vào bậc bố kinh,
Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu.
Còn việc nàng ép lòng theo Sở Khanh chỉ vì nàng muốn thoát khỏi chốn
thanh lâu mà thôi. Đến việc đánh cắp chuông vàng khánh bạc, nói dối Giác Duyên,
hầu rượu Hồ Tôn Hiến… tất cả là do “ngộ biến tùng quyền”, tuỳ thời mà ứng phó.
Thật khó mà đánh giá tiết hạnh nàng Kiều. Nhưng ta phải đánh giá thế nào
về chữ “trinh” của Kiều đây? Kiều đã lưu lạc mười lăm năm “thanh y hai lượt, thanh lâu hai lần”, đã từng làm lẽ Mã Giám Sinh,
Thúc Sinh, làm vợ Từ Hải, viên thổ quan. Vậy mà khi gặp lại Kim Trọng, nàng
bảo:
Chữ trinh còn một chút này,
Chẳng cầm cho vững lại giày cho
tan!
Thực ra, chữ “trinh” mà Kiều nói không phải nghĩa là sự trắng trong về
thân xác, cũng không phải là sự trắng trong về tinh thần. Về thân xác thì rõ
rồi. Về tinh thần thì dẫu không yêu ai ngoài Kim Trọng nhưng tình nghĩa ái ân
với Thúc Sinh, Từ Hải, Kiều cũng tự thấy mình không còn xứng đáng được gọi là
trung trinh. Vì thế chữ “trinh” của Kiều phải được hiểu theo nghĩa khác. Quan niệm của Nguyễn Du về chữ trinh không
cực đoan:
Xưa nay trong đạo đàn bà,
Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường.
Có khi biến, có khi thường,
Có quyền, nào phải một đường chấp
kinh.
Như nàng lấy hiếu làm trinh,
Bụi nào cho đục được mình ấy vay?
Với Nguyễn Du, chữ trinh còn là nét đẹp trong phẩm chất, tâm hồn con
người. Nguyễn Du đã đóng vai người bạn đường theo dõi và đồng tình với Kiều
trong suốt quãng đường đời của Kiều chứ
không phải là nhà khoác áo đạo đức để đi biện hộ cho tiết hạnh nàng Kiều. Chính
vì thế, Kiều giành được sự cảm thông của người đọc bằng chính những ứng xử phù
hợp của nàng trong từng hoàn cảnh chứ không phải chỉ vì Kiều nêu cao gương tiết
hạnh.
2.2.1.2. Tính hiện thực và nhân đạo
- Giống: Trong
phần tìm hiểu về ảnh hưởng của thơ Đường đến thơ chữ hán của Nguyễn Du, ta cũng
đã thấy tính hiện thực và nhân đạo trong thơ Đường. Còn trong Truyện Kiều giá trị hiện thực và nhân
đạo cũng được hiện rõ rất. Truyện
Kiều được đánh giá cao trước hết ở giá trị hiện thực sâu sắc. Ngòi bút sắc
sảo của nhà thơ đã miêu tả bộ mặt xã hội với những nhân vật điển hình, có diện
mạo và bản chất riêng, có sức sống mãnh liệt, có sức tố cáo mạnh mẽ, có chiều
sâu lịch sử và có tính thời sự đối với mọi thời đại. – - - Khác:
+ Thơ Đường:
Hiện thực được phô bày chỉ là hình thức. Đó là hiện thực của gia đoạn, xã hội.
+ Nguyễn Du: Truyện Kiều cụ thể hóa nỗi khổ của Kiều.
Với Truyện Kiều, bên cạnh tiếng kêu
thương đòi quyền sống cho con người, Nguyễn Du đã phơi bày bộ mặt xấu xa tàn
bạo của xã hội phong kiến Việt Nam đương thời và nói lên hiện thực cô độc, mong
manh của những kẻ tài sắc.
Bộ mặt xấu xa, tàn bạo của xã hội
phong kiến Việt Nam đương thời, đầu tiên phải kể đến là thế lực quan lại. Nhắc
đến cuộc đời Kiều chúng ta nghĩ đến kiếp nạn “thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần” nhưng còn một nơi mà người
con gái đáng thương, tội nghiệp ấy đã hơn một lần phải tới và trở thành nạn
nhân, đó là cửa quan. Không ở đâu thế giới quan lại hiện lên sinh động, chân
thực, đa dạng như trong tác phẩm Truyện
Kiều. Đó là những kẻ đại diện cho bộ máy chính quyền phong kiến, những kẻ
được xem là cha mẹ dân, có kẻ chịu trách nhiệm cầm cân nảy mực nhưng lại chính
là thủ phạm gây ra biết bao oan khốc đến nỗi sinh li tử biệt cho người dân vô
tội.
Ở đó còn có hiện thực về thân phận
con người, trong Truyện Kiều, trên
cái nền tối đen, xám xịt của xã hội phong kiến bất công và thối nát, Nguyễn Du
đã phơi bày hiện thực đau đớn đến nhức nhối lương tâm về số phận con người, đặc
biệt là người phụ nữ. Xưa, Bạch Cư Dị từng nói: “Nhân sinh mạc túc phụ nhân thân. Bách niên khổ lạc do tha nhân”
(Đời người không nên làm phụ nữ. Trăm năm sướng khổ do người khác quyết định).
Nhưng hiện thực về số phận con người kết tinh trong hình tượng nàng Kiều không
chỉ được nhìn từ góc độ giới tính mà còn được nhà thơ cắt nghĩa, lí giải từ góc
độ xã hội. Làm nên thân phận ấy không phải bởi tại trời sinh ra là phụ nữ, thân
phận ấy là hệ quả tất yếu của một xã hội xem thường giá trị con người. Thông
qua hiện thực đó, Nguyễn Du đã thể hiện cái nhìn cảm thông, thương xót trước
kiếp người “tài hoa bạc mệnh”. Đó chính là tấc lòng nhân đạo của tác giả.
2.2.2. Nghệ thuật
2.2.2.1. Thể thơ
Các nhà thơ Đường vận dụng chất liệu
và thi pháp Đường thi vào sáng tác theo thể thơ quen thuộc là cổ thể và kim
thể. Còn Nguyễn Du lại vận dụng những thi liệu đó vào sáng tác theo thể thơ lục
bát - thể thơ truyền thống của dân tộc. Đó là sáng tạo độc đáo của đại thi hào.
2.2.2.1. Phép đối
- Giống: Vì đối là yêu
cầu bắt buộc trong thơ Đường nên trong quá trình ảnh hưởng của mình, Nguyễn Du
cũng không nằm ngoài việc sử dụng nghệ thuật đối từ thơ Đường.
Người sáng tác thơ luật Đường khi bắt gặp một
cảnh huống thơ, hồn thơ đang dào dạt, bao nhiêu ý tứ cứ trào ra, vội phô diễn
nó lên giấy mực. Chưa xong, người sáng tác thơ còn phải cô đúc, dồn nén, sao
cho số câu, số chữ phải đúng theo luật; số chữ trong bài có thanh trắc phải xấp
xỉ số thanh bằng. Đó chính là điều hé mở khái niệm về sự cân bằng, có ý nghĩa
triết học cổ phương Đông nằm trong hình thức thơ Đường luật.
Ý nghĩa triết học nêu trên còn
thể hiện rõ ở phép đối ngẫu. Trong một liên thơ (hai câu) được gọi là có
đối, thì câu trước, nó như tung, câu sau nó như hứng, nó nương vào nhau làm cho
ý thơ thêm mạch lạ. Vậy hèn chi, người ngàn xưa đã chả đưa đối ngẫu vào thể thơ
này như một điều bắt buộc. Trong một bài thơ, những cặp đối ở các câu thực,
luận chính là vẻ đẹp đặc sắc, và là một trong những điều kiện cần và đủ để
nhận ra đó là một bài thơ Luật đường. Đọc thơ Đường luật mà không có đối thì
chẳng khác gì “Ăn bánh nướng trung thu mà không có nhân thập cẩm” thật là nhạt
nhẽo và vô vị.
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu
(hàng cây đất Hán Dương rực rỡ
bên dòng sông tạnh,
cỏ thơm bãi Anh Vũ vẫn tốt tươi).
(Hoàng Hạc lâu – Thôi
Hiệu)
Giang
gian ba lãng kiêm thiên dũng
Tái thượng phong vân tiếp địa âm
Tái thượng phong vân tiếp địa âm
(giữa dòng sông sóng tung lên tận
trời,
trên cửa ải gió mây như sà sát mặt đất)
(Thu hứng – Đỗ Phủ)
Nguyễn Du chịu ảnh hưởng của thơ
ca cổ điển Trung Quốc rất sâu sắc. Có thể nói trước khi viết Truyện
Kiều, Nguyễn Du đã có một nhãn quan thi ca Trung Quốc sâu sắc thể hiện
trong các áng thơ chữ Hán của ông.
- Khác: Nguyễn Du sử dụng thành thạo
các phép đối trong thể thơ truyền thống của dân tộc và sử dụng dày đặc trong Truyện
Kiều, tạo thành một chất lượng mới của truyện thơ lục bát.
“Khuôn trăng đầy dặn, nét ngài nở nang
Hoa cười, ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”
“Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”
2.2.2.2. Điển
cố, điển tích
- Giống: Nguyễn Du dùng nhiều điển cố,
cụm từ, câu sẵn của thơ ca Trung Quốc, một tập quán sáng tác mà các nhà thơ
Trung Quốc thường có:
10
32
192
238
2174
…
|
Bốn phương
phẳng lặng, hai kinh vững vàng
Nghề riêng ăn
đứt Hồ Cầm một trương
Đào nguyên lạc
lối đâu mà đến đây
Chưa xong điều
nghĩ đã đào mạch tương
Gươm đàn nửa
gánh, non sông một chèo
…
|
Đời nhà Minh
bên Tàu có hai kinh đô là Nam Kinh và Bắc Kinh
Hồ cầm là cái
đàn tỳ bà. Ngày xưa Hán Nguyên Đế có bà Chiêu Quân phải đi cống rợ Hồ, thường
hay đánh cái đàn ấy nên mới gọi là Hồ cầm.
Cuối đời nhà
Tấn có một người đánh cá đi lạc vào một cái suối, đi mãi gặp chỗ Tiên ở.
Bà Nga Hoàng
và bà Nữ Anh ngày xưa khóc vua Thuần bên bờ sông Tương. Cho nên bây giờ người
ta lấy chữ tương ví với nước mắt đàn bà
Thơ của Hoàng
Sào, là tướng giặc đời Đường có câu: Nửa vai đeo cung kiếm có trời cho. Một
chèo đi khắp non sông trên đất
…
|
Một trong những
nét đặc trưng của thi pháp thời kỳ này là sử dụng điển cổ, điển tích, tập cổ...
Trong Truyện Kiều những hình thức này không ít, Nguyễn Du đã sử dụng rất nhiều
điển cổ, điển tích của Trung Quốc được lấy từ Kinh Thi, Tình sử, Tả truyện, Kinh Dịch, Lễ ký, Hán Thư, Tây sương, Thần
tiên truyện...
- Khác: Qua bàn tay tài hoa của ông, nững điển cố này đã được sử
dụng rất sáng tạo và đã trở nên quen thuộc hơn, gần gũi với tâm hồn dân tộc
Việt Nam hơn. Như thế ngôn ngữ Việt cũng trở nên giàu có và phong phú hơn khi
du nhập những từ ngữ mới.
Chẳng hạn như từ bể dâu trong câu “trải qua
một cuộc bể dâu” là mượn từ câu “Thương hải biến vi tang điền”
(bể xanh hóa thành nương dâu – thần tiên truyện) hay như câu:
“Sầu đong càng lắc càng đầy,
Ba thu dọn lại một ngày dài ghê” (câu 247-248)
Là hình thức tập cổ của câu Nhất nhật bất kiến
như tam thu hề (một ngày không thấy mặt lâu như ba tháng mùa thu – kinh
thi).
2.2.2.3. Tính chất “thi trung hữu họa”
Thơ
Đường có một sắc thái đặc thù, đó là mối quan hệ giữa thơ và các ngành nghệ
thuật khác. Vào thời đó, các ngành nghệ thuật như âm nhạc, vũ đạo, hội họa, thư
pháp, nghệ thuật viết chữ, v.v.. đã rất phát triển và chắc hẳn đều có tác dụng
nâng cao khiếu thẩm mỹ của các nhà thơ. Đặc biệt có mối quan hệ khăng khít giữa
hội họa và thi ca. Nhiều nhà thơ cũng đồng thời là họa sĩ, chẳng hạn như hào
thi Vương Duy; nhiều bức họa của ông- nhất
là họa phá mặc sơn thủy – đến nay vẫn còn được truyền tụng. Nói về Vương
Duy, Tô Đông Pha, một danh sĩ đời Tống, đã có câu “thi trung hữu họa, họa trung hữu thi” (trong thơ có họa, trong họa
có thơ).
a1. Cặp màu sóng đôi
Nguyễn Du khéo dùng các cặp màu
sóng đôi theo lối của Đỗ Phủ. Nguyễn Du tôn phục Đỗ Phủ, ông giống và có lẽ cả
tiếp thu nữa quan niệm nghệ thuật về sáng tác văn học của Đỗ Phủ.
Chỉ bằng một câu thơ lục bát, bức
họa xuân hiện ra đẹp đến không ngờ:
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Cách viết của Nguyễn Du khiến ta không phân biệt được đâu là thơ, đâu là họa nữa. Thảm cỏ xanh non trải ra mênh mang đến "tận chân trời" là gam màu nền cho bức tranh xuân. Trên nền xanh mượt mà ấy được điểm xuyết một vài bông hoa lê trắng. Đây chính là cái hồn, cái thần, là nét vẽ trung tâm của bức tranh. Tiếp thu từ câu thơ cổ trung Quốc: "Phương thảo liên thiên bích / Lê chi sổ điểm hoa" (Cỏ thơm liền với trời xanh / Trên cành lê có mấy bông hoa), Nguyễn Du đã vận dụng sáng tạo khi thêm màu trắng vào câu thơ. Cả một không gian xuân hiện lên khoáng đạt, trong trẻo vô cùng. Màu sắc có sự hài hòa đến mức tuyệt diệu. Chỉ hai màu thôi mà có thể gợi nên vẻ mới mẻ, tinh khôi, tươi sáng, trẻ trung đầy thanh khiết đến như vậy. Tính từ "trắng" kết hợp với động từ "điểm" đã thể hiện được cái đẹp, cái sống động của câu thơ lẫn bức tranh xuân, gợi hình ảnh lay động của hoa làm cho cảnh vật trở nên sinh động, có hồn chứ không tĩnh lại. Những đường nét mềm mại, thanh nhẹ, sắc màu không sặc sỡ mà hài hòa, không tả nhiều mà vẫn gợi được vẻ đẹp riêng của mùa xuân. Phải là người sống chan hòa với thiên nhiên, cỏ cây và nhất là có tâm hồn rung động tinh tế, thi nhân mới có thể viết được những câu thơ nhẹ nhàng mà đầy biểu cảm tuyệt vời đến thế. Dường như Nguyễn Du đã thay mặt tạo hóa dùng ngòi bút để chấm phá bức tranh nghệ thuật cho riêng mình.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Cách viết của Nguyễn Du khiến ta không phân biệt được đâu là thơ, đâu là họa nữa. Thảm cỏ xanh non trải ra mênh mang đến "tận chân trời" là gam màu nền cho bức tranh xuân. Trên nền xanh mượt mà ấy được điểm xuyết một vài bông hoa lê trắng. Đây chính là cái hồn, cái thần, là nét vẽ trung tâm của bức tranh. Tiếp thu từ câu thơ cổ trung Quốc: "Phương thảo liên thiên bích / Lê chi sổ điểm hoa" (Cỏ thơm liền với trời xanh / Trên cành lê có mấy bông hoa), Nguyễn Du đã vận dụng sáng tạo khi thêm màu trắng vào câu thơ. Cả một không gian xuân hiện lên khoáng đạt, trong trẻo vô cùng. Màu sắc có sự hài hòa đến mức tuyệt diệu. Chỉ hai màu thôi mà có thể gợi nên vẻ mới mẻ, tinh khôi, tươi sáng, trẻ trung đầy thanh khiết đến như vậy. Tính từ "trắng" kết hợp với động từ "điểm" đã thể hiện được cái đẹp, cái sống động của câu thơ lẫn bức tranh xuân, gợi hình ảnh lay động của hoa làm cho cảnh vật trở nên sinh động, có hồn chứ không tĩnh lại. Những đường nét mềm mại, thanh nhẹ, sắc màu không sặc sỡ mà hài hòa, không tả nhiều mà vẫn gợi được vẻ đẹp riêng của mùa xuân. Phải là người sống chan hòa với thiên nhiên, cỏ cây và nhất là có tâm hồn rung động tinh tế, thi nhân mới có thể viết được những câu thơ nhẹ nhàng mà đầy biểu cảm tuyệt vời đến thế. Dường như Nguyễn Du đã thay mặt tạo hóa dùng ngòi bút để chấm phá bức tranh nghệ thuật cho riêng mình.
Truyện Kiều có nhiều từ ngữ chỉ
màu sắc (có đến 119 lần), với nhiều màu khác nhau. Nguyễn Du dùng từ chỉ màu
sắc để tạo thành các hình tượng có nội dung khái quát, rộng lớn và giàu giá trị
thẩm mỹ.
Tả nàng Vân với mái tóc dài, mượt còn xanh hơn cả mây; làn da trắng mịn hơn cả tuyết (Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da). Ở đây Nguyễn Du dùng màu mây thay cho màu đen của mái tóc. Bởi trong Truyện Kiều chưa có màu đen có ý nghĩa đẹp cho nên tóc đen đẹp được gọi là tóc mây.
Tả nàng Kiều với đôi môi đỏ thắm khiến hoa phải ghen vì thua thắm và mái tóc xanh mượt khiến liễu phải hờn (Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh)
Tả nàng Vân với mái tóc dài, mượt còn xanh hơn cả mây; làn da trắng mịn hơn cả tuyết (Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da). Ở đây Nguyễn Du dùng màu mây thay cho màu đen của mái tóc. Bởi trong Truyện Kiều chưa có màu đen có ý nghĩa đẹp cho nên tóc đen đẹp được gọi là tóc mây.
Tả nàng Kiều với đôi môi đỏ thắm khiến hoa phải ghen vì thua thắm và mái tóc xanh mượt khiến liễu phải hờn (Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh)
Không chỉ có màu trắng, màu xanh,
Nguyễn Du còn đề cập đến màu vàng, màu hồng trong câu Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia. Đó không chỉ đơn thuần là sắc
vàng của cồn cát nhấp nhô, sắc hồng của từng đám bụi cuốn lên từng dặm xa mênh
mông mà còn là cát bụi của cuộc đời.
Đó là màu vàng – xanh. Vàng tàn tạ héo uá của nội cỏ dàu dàu và Chân mây mặt đất một màu xanh xanh…
Đó là màu vàng – xanh. Vàng tàn tạ héo uá của nội cỏ dàu dàu và Chân mây mặt đất một màu xanh xanh…
b. Chất
hoạ trong những bức chân dung nhân vật
Trong chân dung nghệ thuật, vấn đề hàng đầu là đường nét, màu sắc đậm
nhạt, lu mờ. Nắm vững nguyên lý vẽ chân dung nghệ thuật khi hoạ tác nhân vật
Thuý Kiều, nhân vật trung tâm của tác phẩm, Nguyễn Du đã chọn những gam
màu mát, màu trắng trong của nước, màu xanh của núi và liễu, màu sắc đậm và
tươi của hoa “thắm”; đường nét mảnh mai uyển chuyển sống động “làn, nét ” và
phẳng lặng của mặt nước hồ thu. Không chỉ có những màu đơn, màu phối,
Nguyễn Du còn dùng lối so sánh về cường độ màu “thua thắm, kém xanh” để làm rõ
vẻ đẹp hoàn thiện toàn mỹ, làm hiện lên số phận của một con người theo đúng
triết lý “Hồng nhan bạc mệnh, tài tử đa truân”. Chỉ hai nét vẽ, bức chân dung
của một giai nhân tuyệt thế đã hiện hữu, đó chính là cái tài của thi hào.
Khác với nhân vật Thuý Kiều, nhân vật Thuý Vân là loại nhân vật đề thêm
để tôn thêm vẻ đẹp và gỡ rối cho Thuý Kiều. Vì thế, nhân vật này dù có nhắc đến
nhiều lần nhưng chỉ mang chất hoạ có một lần ở phần đầu tác phẩm. Nhưng
để tạo ra vẻ đẹp theo kiểu “Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười” không phải là
chuyện dễ. Vẽ Thuý Vân Nguyễn Du đi theo trình tự từ tổng thể đến chi tiết, từ
dáng người đến khuôn mặt, nét ngài, nụ cười, tiếng nói, mái tóc, màu da. Nhờ sự hài hoà về sắc màu, mềm mại về đường
nét, vượt chuẩn về âm thanh, cân đối về hình khối, hoàn chỉnh cả điểm lẫn diện
mà bức chân dung Thuý Vân trở nên viên mãn, sống đông, phúc hậu, mệnh phụ.
Dù vậy, vẻ đẹp của Thuý Vân thiếu đi cái thần “đôi mắt”, nó thiên về vẻ đẹp
khuôn thước mẫu mực hơn là vẻ đẹp gợi cảm, sắc sảo và quyến rũ. Điều đó đã làm
nên sự khác biệt giữa hai chị em, hai số phận, hai tính cách: người thì hồng
nhan bạc mệnh kẻ thì hạnh phúc ấm êm.
Để tránh đi sự đơn điệu, Nguyễn Du phác hoạ nhân vật Kim Trọng
được trong khung cảnh buổi chiều thiên nhiên đầy diễm lệ, thanh tao. Khung
cảnh thiên nhiên đã trở thành cái phông màn tôn thêm vẻ đẹp cho nhân vật, và
ngược lại nhân vật làm cho bức tranh thêm sống động có hồn. Cái tài của Nguyễn
Du là tạo ra một bố cục có chính có phụ: người - ngựa, thầy - tớ, con người -
thiên nhiên, dưới một góc nhìn xa gần. Camera của thi hào đặc biệt chú ý đến cử
chỉ từ tốn chậm rãi của một văn nhân thực thụ “lỏng buông, xuống ngựa, tới nơi,
vào trong, ra ngoài”. Kỹ thuật pha màu của nhà thi hoạ đã đạt đến độ
điêu luyện cao tay khi tạo ra sắc màu độc đáo của chiếc áo. Màu của
chiếc áo là sự hoà trộn giữa sắc biếc của da trời và sắc xanh của cỏ. Màu sắc
ấy có được còn là sự kết hợp giữa tấm lòng trân trọng của Nguyễn Du và trái tim
rung cảm của nàng Kiều. Đây là bức tranh mang tính chất động, có gam màu mát trong
đó màu xanh- xanh cỏ, xanh trời, xanh áo, xanh cây là sắc màu chủ đạo. Bên
cạnh đó đường nét thể hiện sự vận động cũng được Nguyễn Du sử dụng thật tài
tình. Những bước chân di chuyển nhẹ nhàng của chàng Kim đã làm cho thiên
nhiên thức dậy, bừng sáng, vận động khẽ khàng. Kim Trọng xuất hiện, dung mạo
của chàng, cử chỉ, phong độ của chàng làm “xinh đẹp của một vùng” (chữ dùng của
Xuân Diệu).
Nếu Kim Trọng hiện ra trong sắc chiều êm ả thì Từ Hải được vẽ ra trong
đêm thanh tĩnh gió hây hây thổi, không khí huyền ảo tràn ngập ánh trăng. Bức
chân dung đã có thêm nét tối sáng, nét rõ mờ rất phù hợp với
chất huyền thoại của nhân vật. Bút lực của Nguyễn Du không dồn vào màu sắc mà
dồn vào đường nét. Nét bút có đường nét to và rất mạnh mẽ ”râu hùm, hàm
én, mày ngài”, phóng bút nhiều chiều, chiều ngang - vai năm tấc
rộng, chiều dọc -thân mười thước cao; chiều cao - đội trời và chiều thấp - đạp
đất… Dù chỉ chọn 4 nhân vật tiêu
biểu, người đọc cũng dễ dàng thấy rõ Nguyễn Du – trong những câu văn của mình ở
Truyện Kiều – đã vận dụng bút pháp “thi trung hữu họa” của thơ Đường. Qua đó,
ta thấy được nét đẹp trong thơ ông cũng như thành tựu mà nhà thơ đã kế thừa từ
thơ Đường.
2.2.2.4.
Hình ảnh, từ ngữ ước lệ, tượng trưng
Thơ Đường thường dồn nén
những ẩn dụ tượng trưng. Những ẩn dụ tượng trưng này có sức bùng nổ lượng thông
tin lớn. Cái ưu thế của nghệ thuật tinh tế, diệu xảo được tạo ra bởi "ngôn
hữu hạn, ý vô cùng", nhờ sự lựa chọn và tổ chức hình ảnh mang tính ẩn dụ
cao.
Tiền bất kiến
cổ nhân
Hậu bất kiến lai giả
Niệm thiên địa chi du du
Độc thương nhiên nhi lệ hạ
(Đăng U châu đài ca - Trần Tử Ngang)
Hậu bất kiến lai giả
Niệm thiên địa chi du du
Độc thương nhiên nhi lệ hạ
(Đăng U châu đài ca - Trần Tử Ngang)
(Trông lại trước không
thấy người xưa, trông lại sau không thấy ai đến, nghĩ trời đất lâu dài vô cùng,
một mình lệ rơi đau xót)
Bên cạnh đó, thơ Đường hết sức coi trọng việc sử dụng ngôn
ngữ. Ngôn ngữ thơ đường là ngôn ngữ tinh luyện và chính xác, cô động
và hàm súc.
Tiếp thu những yếu tố đó, trong Truyện
Kiều, Nguyễn Du hết sức chú ý về hình ảnh và ngôn từ ông sử dụng. Từ ngữ và
hình ảnh đều cô đọng và mang tính ước lệ cao. Là nhà thơ thiên tài của dân tộc,
Nguyễn Du là người chiụ ảnh hưởng rất lớn thi pháp cổ điển về khắc hoạ, xây
dựng hình tượng nhân vật. Vì thế ngôn từ ước lệ được sử dụng nhiều trong Truyện
Kiều. Cũng giống như người xưa, nhà thơ đã lấy vẻ đẹp của thiên nhiên như tuyết
- mai, trăng - hoa, mây - tuyết, thu thuỷ - xuân sơn, hoa - liễu …làm chuẩn
mực, làm thước đo giá trị, vẻ đẹp của con người. Tác giả đã dùng bút pháp cực
tả tuyệt đối hoá, lý tưởng hoá nhan sắc cốt cách hai chị em Kiều. Đó là Mai cốt
cách, tuyết tinh thần, khuôn trăng, nét ngài, hoa cười ngọc thốt, mây thua,
tuyết nhường, làn thu thuỷ, nét xuân sơn, hoa ghen, liễu hờn … Để khắc hoạ cái
cốt cách thanh tao, mảnh dẻ như mai; tinh thần trong trắng như tuyết. Một vẻ
đẹp mười phân vẹn mười nhưng mỗi người một vẻ củachị em Kiều. Tả nàng Vân kiều
diễm Nguyễn Du dùng: khuôn trăng, nét ngài, hoa cười, ngọc thốt, mây thua,
tuyết nhường cùng vơí một số từ nôm na như khác vời và những từ ngữ đầy đặn, nở
nang vừa khắc hoạ được vẻ đẹp đoan trang, phúc hậu của nàng Vân, vừa như dự báo
được cuộc sống sau này rất bình lặng của nàng.
Còn với Kiều, Nguyễn Du đã dùng vẻ đẹp của Thuý Vân để bẫy vẻ đẹp của
Kiều. Nhà thơ đã dùng đến 12 câu thơ để khắc hoạ về Kiều. Điều đó chứng tỏ nhà
thơ đã dành cho nhân vật chính của mình một tình cảm hết sức đặc biệt. Nhiều
thi liệu cổ đã được huy động để khắc hoạ bức chân dung tuyệt mỹ của giai nhân
như: Làn thu thuỷ, nét xuân sơn, hoa ghen, liễu hờn… Với bút pháp lý tưởng hoá,
Kiều hiện ra trước mắt người đọc bằng hình ảnh một thiếu nữ có đôi mắt trong
sáng, bình lặng như mặt nước hồ thu; nét mày uốn cong thanh tú như dáng núi mùa
xuân.Thật là một dung nhan rực rỡ, sắc sảo mặn mà, vừa có duyên, vừa có hồn.
Nhưng đẹp đến độ sắc nước hương trời, chim sa cá lặn, nước thành nghiêng đổ,
hoa phải ghen, liễu phải hờn tất cuộc đời sẽ gặp nhiều sóng gió, đau khổ… Mười
lăm năm lưu lạc chìm nổi của Kiều đã chứng minh rõ điều đó. Là một nghệ sĩ về
ngôn từ, Nguyễn Du không sử dụng những thi liệu cổ ấy một cách máy móc rập
khuôn mà sự sáng tạo của nhà thơ là rất lớn. Nói tới nỗi buồn của người đẹp,
nhà thơ gắn với những thềm hoa, lệ hoa, rồi nét buồn như cúc, điệu gầy như mai…
Nói chung, qua việc sử dụng những thi liệu cổ nhà thơ đã tạo ra những từ ngữ
rất riêng, rất Nguyễn Du, nhưng vẫn là ngôn ngữ dân tộc.
2.2.2.5. Bút pháp tả cảnh ngụ tình
- Giống:
+ Thơ Đường là
thể loại thơ mà có thể nói sống đúng nghĩa với hai chữ “trữ tình”. Tình cảm,
cảm xúc trở thành mạch nối vô hình để hàn kết các hình ảnh, ý tưởng, nhạc điệu
tạo nên sự vận động của ý thơ trên con đường tạo nên cấu tứ. Nhưng trong
thơ Đường, cá nhà thơ thường không bộc lộ trực tiếp tình cảm mà thường giấu
mình qua bức tranh thiên nhiên. Ta hãy thử cảm nhận cái không khí mênh mang, u
tịch trong bài Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu
Tích nhân dĩ thừa hoàng
hạc khứ
Thử địa không dư Hoàng hạc lâu
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản
Bạch vân thiên tải không du du
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu
Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
Thử địa không dư Hoàng hạc lâu
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản
Bạch vân thiên tải không du du
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu
Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
(Người xưa đã cỡi hạc vàng bay đi mất, chỉ còn trơ lại Lầu Hoàng hạc tại
mảnh đất này. Hạc vàng một đi không trở lại, ngàn năm mây trắng vẫn bay dằng
dặc, hàng cây đất Hán Dương rực rỡ bên dòng sông tạnh, cỏ thơm bãi Anh Vũ vẫn
tốt tươi. Lúc trời chiều đứng trông về làng cũ tự hỏi: Quê hương ở chốn nào?
Khói sóng mịt mờ trên sông nước khiến cho người nổi mối ưu sầu)
Tác giả đặt tâm hồn mình vào khoảng thời gian và không gian vô tận. Nỗi
sầu từ sự ý thức giữa cái hữu hạn của kiếp người và cái vô cùng của tạo vật đã
thành mạch chảy suốt bài thơ. Người xưa đi mất, quanh đây chỉ còn mây trắng
bay. Cái buổi chiều là ảo tưởng xa xôi nhưng cũng hết sức cận kề. Ý thức về
sinh ký tử quy của tác giả như hòa vào khói sóng đìu hiu và rồi tất cả chỉ còn
đọng lại trong một chữ "sầu" trĩu nặng ở cuối bài thơ.
+ Nguyễn Du
cũng vậy, ông sử dụng kinh nghiệm tả tình của thơ
ca qua các chủ đề như Tống biệt, Hoài cổ, Nhớ nhà đi sớm,Cảm khái thân
thế, cảm lưu lạc… Đó là những thơ đề rất phổ biến trong thơ ca Trung Quốc, nhất
là thơ Đường. Thông qua bức tranh ngày xuân đi trẩy hội, Lễ Thanh minh,
nhà thơ gửi gắm nhiều điều. Nguyễn Du đã từng viết: "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?". Vì vậy, khi vào lễ hội,
người vui thì cảnh sắc rộn ràng tười mới. Lúc lễ hội tan rồi, người về sao
tránh khỏi sự xao xuyến, cảnh sắc sao tránh khỏi màu ảm đạm! Dường như có một
nỗi niềm man mác, bâng khuâng thấm sâu, lan tỏa trong tâm hồn vốn đa tình, đa
cảm như Thúy Kiều. Nguyễn Du không chỉ nhằm nói tâm trạng buồn tiếc khi lễ hội
vừa tàn, mà hình như, ông chuẩn bị đưa nhân vật của mình vào một cuộc gặp gỡ
khác, một thế giới khác. Như ta đã biết, ngay sau buổi Thanh minh, Nguyễn Du đã
sắp đặt để Thúy Kiều gặp Đạm Tiên và Kim Trọng. Vì thế, cảnh vật trong hoàng
hôn này cũng là một dự báo, một linh cảm cho đoạn trường mà đời kiều sắp phải
bước qua. Tả cảnh, tả tình như thế thật khéo, cách chuyển ý cũng thật tinh tế,
tự nhiên.
2.2.2.6. Sừ dụng chất liệu Đường thi
(mượn, phỏng dịch, phóng tác)
- Giống: Trong Truyện Kiều đã
có rất nhiều câu có chất liệu Đường thi. Những câu như: “Màu hoa lê hãy dầm
dề giọt mưa” (câu226) gợi người đọc nhớ tới câu “ngọc dung
tịch mịch lệ lan can, lê hoa nhất chi xuân đái vũ” (mặt ngọc âm thầm,nước
mắt chan hòa; như một cành hoa lê ướt đẫm nước mưa xuân). Hay câu “trong khi
chắp cánh liền cành” (câu 515) gợi nhớ tới câu “ tại thiên nguyện
tác ty dực điểu, tại địa nguyện vi liên lý chi…” (trên trời nguyện làm con
chim liềm cành,dưới đất nguyện làm cây liền cành)
Ở đây cũng
có nhiều câu thơ dịch mà nhờ Nguyễn Du những câu thơ Đường này đã nổi tiếng
hơn:
Nhân diện bất
tri hà xứ khứ
Đào hoa y cựu
tiểu đông phong
(không biết mặt
người ở nơi nào
Hoa đào vẫn cười
với gió đông như cũ)
(đề tích sở kiến xứ - Thôi Hộ)
Nguyễn Du mượn câu thơ này, mượn chuyện của Thôi Hộ mà nói tâm sự của chàng Kim
khi trở lại vườn Thúy. Cũng như Thôi Hộ, Kim Trọng trở lại tìm người đẹp cảnh vẫn
như xưa, vẫn hoa đào, vẫn gió xuân... nhưng người xưa thì không tìm thấy nữa.
Nguyễn Du dịch:
Trước sau nào
thấy bóng người
Hoa đào năm
ngoái còn cười gió đông
(câu 2747-2748)
- Khác: Một câu thơ thần tình nếu là thơ,
tài hoa nếu là dịch! Bởi vì Nguyễn Du không dụng tâm làm một người dịch
thơ Đường nên giữa câu thơ của ông với nguyên tác của Thôi Hộ có nhiều điểm
khác biệt:
+ Nếu Thôi Hộ
viết hà xứ khứ thì Nguyễn Du chỉ viết
đơn giản là trước sau. Thôi Hộ nhớ về
một khuôn mặt đã ửng hồng cùng với hoa đào mùa xuân trong lần gặp gỡ trước (Nhân
diện, đào hoa tương ánh hồng, còn với chàng Kim có lẽ kí ức về nàng Kiều trong
vườn Thúy là hình ảnh Dưới đào dưởng có bóng người thướt tha (câu 290). Do vậy
Nguyễn Du cũng dùng từ bóng người là phù hợp với văn cảnh, với tâm trạng của
chàng Kim. Câu thơ của Nguyễn Du mang nghĩa khẳng định, còn câu thơ của Thôi Hộ
là một sự băn khoăn, không thể nói được ai là người viết hay hơn, sâu sắc hơn
ai, bởi cả hai đều thể hiện được một nỗi thất vọng thật sự.
+ Ở câu thứ hai,
Nguyễn Du đã có một sự sáng tạo độc đáo khi ông thay từ y cựu bằng từ năm ngoái. Y cựu là vẫn như cũ, hoa đào sau một
năm, mùa xuân đến lại trổ ra những bông hoa y như trước kia, vẫn thắm tươi để
cười với gió mùa xuân. Nguyễn Du có ý khẳng định hơn khi ông dùng từ năm ngoái. Không phải những bông hoa
mới trở trong một mùa xuân mới, mà chàng Kim tưởng như đó là những bông hoa của
năm ngoái. Chính là hoa đào của năm ngoái! Vậy thì bóng người thướt tha dưới
hoa đào năm ngoái ở đâu? Nỗi xót xa dường như tăng thêm một bậc. Cảnh cũ vẫn
còn mà người xưa đã vắng! Hoa đào cười với gió đông trở nên thành một hình ảnh
quen thuộc trong lòng người yêu thơ, yêu Truyện Kiều.
+ Một đoạn thơ
dịch chứng tỏ tài năng của Nguyễn Du là đoạn tả tiếng đàn của nàng Kiều trong
màn đoàn viên
Khúc đâu đầm
ấm dương hòa
Ấy là hồ điệp
hay là Trang sinh?
Khúc đâu êm
ái xuân tình!
Ấy hồn Thục
đế hay mình đỗ quyên?
Trong sao
châu dỏ duềnh quyên!
Ấm sao hạt
ngọc Lam Điền mới đông!
(câu 3199-3204)
- Giống: Một đoạn thơ tả tiếng đàn đến tuyệt diệu,
nhưng không hoàn toàn là sáng tạo của Nguyễn Du mà đúng hơn là những câu thơ
dịch từ bài “cẩm sắt” của Lý Thương Ấn đời Đường:
Trang sinh
hiểu mông mê hồ điệp,
Thục đế
xuân tâm thác đỗ quyên.
Thương hải
nguyệt minh châu hữu lệ,
Lam điền ngọc
noãn nhật sinh yên.
(tiếng đàn
như: khi Trang sinh lầm mình là bướm trong giấc mộng buổi sáng. Tấm lòng xuân
của Thục đế gửi gắm vào chim đỗ quyên. Dưới biển xanh, trăng sáng chiếu xuống
những hạt châu thành nước mắt chốn Lam Điền, nắng ấm soi trên những hạt ngọc
tỏa khói).
Nguyễn Du chọn
một đoạn thơ tả tiếng đàn tuyệt hay của Lý Thương Ẩn mà tặng cho nàng Kiều,
tặng cho Kim Trọng. Trong buỏi tái hợp của mối tình xa cách mười lăm năm, tiếng
đàn gảy nên tấm lòng yêu thương cho những con người vừa tìm được hạnh phúc.
- Khác: tiếng đàn của Kiều không còn thảm
sầu, oán than, ngậm đắng nuốt cay như xưa nữa. Tiếng đàn lúc này rất đầm ấm như
giấc mơ hóa bướm trong buổi sáng êm ái xuân tình, trong trẻo như hạt ngọc rơi
xuống mặt nước có ánh trăng soi vào, ấm áp như ánh mặt trời, như những viên
ngọc vừa ngưng kết. Nguyễn Du vì muốn cuộc đoàn viên của Kim Kiều được trọn vẹn
cho nên ông đã làm cho tiếng chim đỗ quyên cũng trở nên êm ái lạ thường. êm ái
như xuân tình! Không còn là tiếng kêu than não ruột của một vị vua mất nước.
tấm lòng xuân của Thục đế trong lốt chim đỗ quyên trở nên ếm ấm lạ thường.
+ Những câu thơ
của Nguyễn Du nống nàn, tha thiết quá vời những thán từ. nhờ hơi thơ lục bát
mượt mả, những câu thơ Đường mang đậm hồn thơ Việt
Bài thơ cẩm sắt
của Lý Thương Ẩn là một bài thơ hay và được nhiều ngưởi dịch, Trần Trọng Sam
dịch những câu thơ đó như sau:
Mơ màng
giấc bướm Trang Sinh;
Lòng xuân
vọng đê đỗ quyên gửi vào,
Biển xanh trăng
chiếu lệ châu;
Ngọc phơi
nắng ấm, khói cao Lam Điền
Trần Trọng Sam
đã dịch thật sát nghĩa so với những câu thơ của Lý Thương Ẩn. Vì tâm thế dịch
thuật hoàn toàn khác Nguyễn du nên những câu thơ dịch củ ông thật hoàn chỉnh,
đúng nghĩa là những câu thơ dịch. Nhưng cũng cần nói lại một lần nữa là Nguyễn
Du của chúng ta không hề có chủ tâm dịch mà chỉ mượn những câu thơ của Lý
Thương Ẩn mà thôi.ông đã vận dụng chúng thật sáng tạo để viết nên những câu thơ
tả tiếng đàn tuyệt vời của mình.
- Giống: Nguyễn Du còn dùng nhiều câu thơ
Đường khác trong sáng tác của mình. Chẵng hạn như câu:
Bán kiên cung
kiếm bằng thiên túng
Nhật trạo
giang sơn tận địa duy
Của Hoàng Sào để
tả Tù Hải: Gươm đàn nữa gánh, non sông một chèo (câu 2174).
Một
sự lựa chọn phù hợp để khắc họa nhân vật Từ Hải, nhân vật lý tưởng trong tác
phẩm. Rồi một câu thơ cũng rất quen thuộc trong bài Vô đề của
Lý Thương Ẩn:
Xuân tàm đáo
tử ty phương tận
(con tằm xuân
đến lúc chết thì tơ mới hết)
- Khác: Nguyễn Du còn làm cho nỗi lưu
luyến còn day dứt hơn nữa khi viết “ Con tằm đến thác, cũng còn vương
tơ” (câu 1976). Không phải khi tằm chết thì hết nhả tơ, mà tơ vẫn còn vương
bên xác tằm. Chỉ có điều ông lại để câu này thốt ra từ miệng của Thúc Sinh,
trong khi chàng Thúc này sợ hãi Hoạn Thư đến nỗi đã bỏ rơi nàng Kiều tội
nghiệp, đẩy Kiều vào con đường đau khổ một lần nữa.
- Giống: Câu thơ kết thúc của hận
trường ca nổi tiếng cùa Bạch Cư Dị cũng được dịch trong truyện Kiều:
Thử hận miên
miên vô tuyệt kỳ
(mối hận này
triền miên không lúc nào chấm dứt)
Mối hận chia ly của Kim Kiều có khác gì mối
hận của Đường Minh Hoàng và Dương Quý Phi ở thời Đường chứ, cũng là Sầu
này dằng dặc một đời chưa quên, dịch được chữ miên miên thành dằng
dặc đã là một sự tuyệt với. Nguyễn Du thể hiện ý thơ này đã thể hiện
sâu sắc sự thấu hiểu đối với mối tình của họ.
Rồi cả câu thơ “Giếng
vàng đã rụng một vài lá ngô” là dịch từ câu “kim tĩnh ngô đồng thu
diệp hoàng” trong bài Trường tín thu từ của Vương Xương
Linh .
Khi thúy Kiều
trở về với gia đình có hẹn là sẽ lập am rước Giác Duyên, nhưng cho người trở
lại tìm thì Giác Duyên không còn ở đó nữa. Đúng như hoàn cảnh Ẩn giả
bất ngộ của Giả Đảo:
Tùng hạ vấn
đồng tử
Ngôn sư thái
dược khứ
Chỉ tại thử
sơn trung
Vân thâm bất
tri xứ
(Dưới cây
tùng hỏi tiểu đồng
Trả lời rằng
thầy đã đi hài thuốc
Chỉ nội trong
núi này thôi
Mây dày không
biết ở chốn nào)
Nguyễn Du mượn
lại câu trả lời đó để trả lời cho sự vắng mặt của Giác Duyên:
Sư đà
hái thuốc phương xa
Mây bay, hạc
lánh, biết dâu là tìm
(câu
3231-3232)
- Khác: Một câu thơ dịch như thế dịch
chưa chỉnh nhưng vận dụng một bài bốn câu vào một bài dài như Truyện
Kiều hơn ba ngàn câu đúng lúc, đúng chổ thật là quá khéo. Cái cớ hái
thuốc trong đám mây dày không tìm ra được Nguyễn du nắm lấy để làm cái kết cho
cả nhân vật Giác Duyên lẫn Thúy Kiều. Giác duyên là một người tu hành hay đi
đây đi đó, không thể để bà về chổ Kiều được, mà nàng Kiều trong đoạn đoàn viên
lại chẳng thể nào đi tu lần nữa. Một giải pháp hợp lý để mỗi nhân vật trong tác
phẩm đi theo hướng của mình.
CHƯƠNG 3: ẢNH HƯỞNG THƠ ĐƯỜNG TRONG TẬP NHẬT KÝ TRONG TÙ CỦA HỒ CHÍ MINH
Trong bài “Nay ở trong thơ nên có
thép - cảm tưởng sau khi đọc tập thơ Nhật ký trong tù”, nhà thơ lớn Trung
Quốc Quách Mạt Nhược viết: “Một trăm bài
thơ hầu hết bài nào cũng đều toát ra hết sức sinh động hình ảnh một nhà cách
mạng lão thành, thanh thoát, tài trí, ung dung, giản dị, kiên cường - ấy là
đồng chí Hồ Chí Minh. Thật là “thi như kỳ nhân” - thơ như người vậy… Có một số
bài rất hay, nếu đặt lẫn vào một tập của các thi nhân Đường - Tống thì cũng khó
phân biệt”. Không phải ngẫu nhiên mà Quách Mạc Nhược có nhận xét như vậy.
Điều đó chứng tỏ rằng ảnh hưởng của thơ Đường trong tập thơ Nhật ký trong tù là có thực. Vậy thì ảnh
hưởng của nó đến mức độ nào? Chúng tôi khảo sát ở những mặt sau:
3.1. Nội dung
3.1.1. Đề tài
- Giống: Thơ Đường và Nhật ký trong tù đều chú ý khám phá sự
thống nhất, sự giao cảm mà trước hết là sự thống nhất và giao cảm giữa con
người và thiên nhiên. Nhật ký trong tù
có nhiều bài viết về thiên nhiên mà trong đó, con người và thiên nhiên có một
mối giao cảm với nhau. Chẳng hạn bài Cảnh
chiều hôm:
Hoa hồng nở, hoa hồng lại rụng,
Hoa tàn, hoa nở cũng vô tình.
Hương hoa bay thấu vào trong ngục
Kể với tù nhân nỗi bất bình.
Cái sự “nở” rồi “tàn” của hoa hồng - hình ảnh tượng trưng cho cái đẹp -
cứ diễn ra theo quy luật trước sự “vô tình” của tạo hóa. Nó tìm đến với người
tù Hồ Chí Minh là tìm đến với một tâm hồn thi sĩ. Nhà thơ, bằng khả năng riêng
của mình có thể làm cho cái đẹp trở thành bất tử. Con người và thiên nhiên như
hòa vào nhau trong nỗi niềm tri âm, tri kỷ. Nhà thơ Xuân Diệu đã từng thốt lên:
“Ờ nhỉ! Sao hoa lại phải rơi?”. Cái
ngơ ngác của Xuân Diệu phải chăng có sự hòa điệu với tâm hồn nhà thơ Hồ Chí
Minh?
- Khác: Mặc dù
phảng phất cách cảm nhận về thiên nhiên của thơ Đường, bài thơ của Hồ Chí Minh
vẫn rất hiện đại. Sự tiếp nhận ở đây không chỉ nói lên cái ảnh hưởng mà còn nói
lên sự đồng điệu của tâm hồn, của các nhân cách văn hóa.
Ở thơ Đường, các nhà thơ chú ý đi
vào mảng đề tài thiên nhiên, còn Nhật ký
trong tù đề cập chủ yếu đề cập đến mảng đời sống, những vấn đề sinh hoạt cá
nhân gần gũi hàng ngày. Ví như những bài Cơm
tù, Chia nước, Rụng mất một chiếc răng, Hụt chân ngã, Cấm hút thuốc, Ghẻ lở
3.1.2. Cái
tôi trữ tình
- Giống: Cũng như thơ Đường, trong Nhật ký trong tù, cái tôi trữ tình của
tác giả thường hòa lẫn vào ngoại cảnh. Đọc bài thơ Chiều tối, người đọc hầu như không thấy tác giả. Những cánh chim
mệt mỏi về rừng, một chòm mây lẻ loi trôi chậm chạp giữa bầu không khí mênh mông,
người cô gái xóm núi xay ngô và một lò than đỏ rực khi trời tối. Mấy đường nét
có đậm, có nhạt, nhưng tác giả dường như lánh hẳn sang một bên để cho ngoại
cảnh phơi bày mọi vẻ của nó.
Trong bài Hoàng hôn, cái tôi
trữ tình của tác giả cũng gần như hòa lẫn vào giữa đường nét, âm thanh và màu
sắc của cơn gió lạnh, của tiếng chuông chùa xa và tiếng sáo mục đồng theo trâu
về xóm:
Gió sắc tựa gươm mài đá núi,
Rét như dùi nhọn chích cành cây.
Chùa xa chuông giục người nhanh bước
Trẻ dắt trâu về tiếng sáo bay.
Bài thơ phảng phất cách cấu tứ của
bài Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế:
Trăng tà chiếc quạ kêu sương
Lửa chài, cây bên, sầu vương giấc hồ.
Thuyền ai đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn.
- Khác: Phong cảnh, đúng hơn là tâm cảnh trong
thơ Hồ Chí Minh không bao giờ lạnh lẽo, cô quạnh như trong thơ người xưa, mà
đang vận động theo vòng quay của cái cối xay ngô để đưa đến một buổi chiều đoàn
tụ:
Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết, lò than đã rực hồng.
Thời gian trôi dần theo cánh chim bay về rừng, theo chòm mây trôi chầm
chậm, theo vòng quay của cái cối xay ngô để rồi dẫn đến một bếp lửa hồng. Bếp
lửa hồng lên nghĩa là buổi chiều đã đến lúc kết thúc nhường chỗ cho đêm tối,
nhưng không phải là đêm tối mênh mông mà là ngọn lửa ấm nóng tình người. Chỉ
thế thôi nhưng biết bao nhân hậu, bao sự trân trọng niềm vui nho nhỏ trong cuộc
đời.
3.1.3. Hình ảnh cánh chim
- Giống: Trong Thơ Đường và thơ Bác,
hình ảnh cánh chim xuất hiện rất nhiều.
- Khác: Cánh chim trong thơ Vương Bột là
cánh chim điểm xuyết cho bức tranh phong cảnh. Còn cánh chim trong thơ Bác là
cánh chim lồng tâm trạng con người.
3.2. Hình thức
3.2.1. Ngôn ngữ
- Giống: Thơ Đường và Nhật ký trong tù
đều làm bằng chữ Hán, vì thế ít nhiều nó mang tính trạng trọng, hàm súc, giàu ý
nghĩa biểu đạt, tượng trưng.
- Khác: Nhật ký trong tù nguyên tác bằng
chữ Hán nhưng đôi khi Người lại xen tiếng Việt vào. Bài Cháu bé trong nhà lao Tân Dương, câu thơ đầu trong nguyên tác được
viết bằng tiếng Việt: “Oa…! Oa…! Oa…!”.
Đó là một hiện tượng đặc biệt nói lên biện pháp nhại được ý thức rất rõ trong
bài thơ. Đọc câu thơ, ta như nghe tiếng khóc uất ức, kéo dài giọng bất bình của
một cháu bé Việt Nam nào đó cất lên giữa chốn lao tù.
3.2.2. Thể loại
- Giống: Tất cả các bài thơ trong tập thơ
Nhật ký trong tù được sáng tác theo
thể thơ Đường luật gồm thể thơ thất ngôn hoặc ngũ ngôn, tứ tuyệt hoặc bát cú và
thơ cổ phong.
- Khác: Ở những bài có nội dung lớn,
cần viết nhiều hơn khuôn khổ của số câu quy định, Người phân thành hai bài đứng
chung dưới một đầu đề. Nếu tách riêng ra, mỗi bài có thể tồn tại như một bài
thơ độc lập nhưng đứng chung dưới một đầu đề, chúng bổ sung ý nghĩa cho nhau.
Tuy nhiên trong tập thơ, có hai bài thơ phá thể. Đó là bài Cháu bé trong nhà lao Tân Dương đã nói ở trên, câu đầu chỉ có ba
chữ chứ không đúng bảy chữ theo quy định của thể thơ. Mặc dù vậy, các dấu ba
chấm và dấu chấm than sau mỗi từ trong câu thơ làm cho nó có sức ngân kéo dài
như câu thơ bảy chữ. Đây là một sáng tạo độc đáo của Người. Một trường hợp khác
là bài Giải đi Vũ Minh:
Đã giải đến Nam Ninh,
Lại giải về Vũ Minh
Giải đi quanh quẹo mãi
Kéo dài cả hành trình
Bất bình!
Bài thơ có năm câu. Bốn câu đầu đủ
tạo nên một bài tứ tuyệt, nhưng tác giả lại thêm từ “bất bình!” đứng tách thành một câu độc lập thể hiện thái độ của
người tù trước việc chế độ nhà tù đày ải người tù vô cớ mà không cần xét xử.
3.2.3. Tính
chất “thi trung hữu họa”
- Giống: Trong thơ Đường nói riêng và
trong thơ ca cổ điển phương Đông nói chung, ba yếu tố thơ, nhạc, họa thường hòa
quyện làm một. Nó làm cho bài thơ nhỏ có một sức chứa lớn, có âm vang nhiều
chiều.
- Khác: Trong bức họa thơ của Hồ Chí Minh
luôn thấm đẫm chất đời thục nghiệt ngã. Bốn câu, hai mươi tám chữ trong bài thơ
Hoàng hôn nói trên đã gợi lên một bức
tranh sinh động với gió chém vào đá núi, với rét cứa vào cành cây, với hình ảnh
người bộ hành dấn bước trên đường, với mục đồng vắt vẻo trên lưng trâu trong
bản hòa tấu của âm nhạc: tiếng gió vi vút, tiếng chuông chùa ngân nga và tiếng
sáo véo von. Cái thoáng nhẹ sâu lắng đó tạo nên âm vang trong lòng người đọc,
khơi dậy những đợt sóng cảm xúc lan tỏa vô cùng. Sự quấn quyện giữa thơ, nhạc,
họa cũng được thể hiện trong bài Người
bạn tù thổi sáo:
Bỗng nghe trong ngục sáo vi vu
Khúc nhạc tình quê chuyển điệu sầu
Muôn dặm quan hà khôn xiết nỗi
Lên lầu ai đó ngóng trông nhau.
Đề tài bài thơ là một sự bay bổng
vượt lên trên cái chốn nhơ bẩn, rác rửi, rận rệp nơi nhà tù. Ta bắt gặp ở đây
một hồn thơ nhạy cảm với những âm thanh trong lành của tiếng sáo, của sự đồng
cảm, đồng điệu giữa người thổi sáo và người nghe sáo, của sức tưởng tượng vừa
bay bổng, vừa tạo hình thành những đường nét cao đẹp. Tiếng sáo có một sức mạnh
liên kết nhiều con người ở nhiều hoàn cảnh khác nhau: nhà thơ, người thổi sáo, vợ
người thổi sáo. Từ một tiếng sáo nhớ quê của người bạn tù, tác giả đã dẫn người
đọc đến nhiều mối liên tưởng: Cảnh tượng sinh ly tử biệt giữa vợ chồng người
bạn tù cũng như sự ngăn trở oái ăm giữa nhà thơ và đồng bào, đồng chí. Từ hình
ảnh người tù nâng cây sáo, một khúc nhạc lan tỏa trong không trung đến hình ảnh
người thiếu phụ nơi quê nhà xa xôi bước lên một tầng lầu như có một sợi dây
liên hệ vô hình nào đó. Tiếng sáo đã bắc cầu trong không trung để nối liền tâm
hồn với tâm hồn. Tiếng sáo ấy gợi nhớ, gợi thương, khiến ta nghĩ đến tấm lòng
yêu thương con người của nhà thơ.
3.2.4. Ý tại ngôn ngoại
Thơ
Đường và Nhật ký trong tù thường có
cấu trúc gọn, nhẹ, cô đúc, ngôn ngữ gợi nhiều hơn tả, ý ở ngoài lời. Trong bài
thơ Mới ra tù tập leo núi, thiên
nhiên trở nên hùng vĩ với hình ảnh núi ôm mây, mây đỡ núi. Đó là cảnh ở ngọn
Tây Phong Lĩnh Trung Quốc. Hình ảnh dòng sông thì trong suốt và phẳng lặng.
Cũng như thơ Đường, Hồ Chí Minh không tả mà gợi. Tả đòi hỏi nhiều chi tiết. Ở
đây, tác giả chỉ dùng hai nét theo bút pháp hội họa truyền thống phương Đông
trong tranh thủy mặc: Một nét vẽ mây và núi gợi vẻ đẹp hùng vĩ của núi cao, một
nét vẽ dòng sông trắng xóa chảy dưới chân núi phản chiếu ánh trời như một tấm
gương phẳng sáng trong. Hai nét vẽ mà bao gồm được cả cao sơn, lưu thủy. Nhân
vật trữ tình như hòa lẫn vào trong cảnh, mang cốt cách của một nhà hiền triết,
nhìn cảnh vật từ trên cao, từ xa, bao quát cả một vùng không gian rộng lớn.
Hình ảnh dòng sông mang ý nghĩa tượng trưng. Dòng sông trắng xóa phản chiếu ánh
trời hay phản chiếu tâm hồn nhà thơ trải bao ngày tháng bị giam cầm, đày ải mà
vẫn trắng trong, không vẩn bụi? Nỗi nhớ bạn hay cũng chính là nỗi nhớ nước luôn
canh cánh bên lòng? Bài thơ gợi liên tưởng đến một Quan Vũ trung trinh, một
Trương Phi ngay thẳng:
Cành lá khéo in hình Dực Đức
Vầng hồng sáng mãi dạ Quan Công
Năm tròn cố quốc tăm hơi vắng
Tin tức bên nhà bữa bữa trông.
Vì vậy, bài thơ kết thúc mà không
khép kín, lại mở ra trường một liên tưởng rộng theo tư duy thẩm mỹ mới làm cho
âm hưởng của bài thơ có sức lan tỏa rộng.
Văn chương có con đường giao tiếp riêng của nó. Đó là sự cộng hưởng giữa
những tâm hồn. Nhật ký trong tù chung
đúc văn hóa kim cổ Đông Tây trong tâm hồn Hồ Chí Minh. Tìm hiểu mối quan hệ
giữa Nhật ký trong tù với thơ Đường chính là lắng nghe cái âm vang sâu lắng của
tập thơ và hiểu thêm sự gặp gỡ giữa những tâm hồn thi sĩ phương Đông. Tuy
nhiên, Hồ Chí Minh không đi lại lối mòn của người xưa. Thái độ đó đã được nói
rõ trong bài thơ Cảm tưởng đọc thiên gia
thi. Tâm hồn Hồ Chí Minh chung đúc khí thiêng của nhiều nền văn hóa, trong
đó có cái giọng sục sôi nhiệt huyết của Phan Bội Châu, sự thâm thúy và cô đúc
của văn chương cổ điển phương Đông, trong đó có thơ Đường, thơ Tống, cái rành
mạch trong văn chương Pháp, chất hài hước của văn chương Anh… Những biểu hiện
cụ thể nói trên chứng tỏ một sự gặp gỡ sâu sắc, chứ không phải là mô phỏng, bắt
chước. Trong sự ảnh hưởng và kế thừa đó, Hồ Chí Minh có sự cách tân. Sự cách
tân tạo nên một kiểu tư duy thẩm mỹ mới, để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng bạn
đọc
KẾT LUẬN
Có
thể thấy, thơ Đường ảnh hưởng rất
sâu sắc trong lòng dân tộc Việt Nam. Chúng ta có cả một nền văn học trung đại,
sáng tác theo bút pháp Đường thi, điều đó chứng tỏ ảnh hưởng của thơ Đường đối
với nền văn học Việt Nam là rất lớn. Cho nên nghiên cứu ảnh hưởng của thơ Đường
trong thơ Nguyễn Du và thơ Hồ Chí Minh, ta thấy được ảnh hưởng cũng như sự sáng tạo của cha ông ta
trong quá trình tiếp nhận. Qua đó sẽ góp phần nhận ra những giá trị tinh hoa của văn học nước nhà, cũng
như vận dụng kết quả nghiên cứu này vào việc học tập và giảng dạy văn học Việt
Nam, Trung Quốc ở nhà trường phổ thông.
Do điều kiện thời gian eo hẹp, trình độ
hạn chế, bài viết của chúng tôi mới chỉ là những nghiên cứu bước đầu nên còn
nhiều thiếu sót. Hy vọng sự
đóng góp chân thành của thầy cô, bè bạn, để bài viết của chúng tôi hoàn thiện hơn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét