Quan niệm nghệ thuật về con người
là một phạm trù rất quan trọng, được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong thi pháp
học. Mặc dù hiện nay, khái niệm này chưa được các nhà nghiên cứu định nghĩa một
cách thống nhất và chặt chẽ, nhưng nó đã phần nào gợi mở cho chúng ta hướng đến
đối tượng chủ yếu của văn học. Theo đó, “Văn
học nghệ thuật là một sự ý thức về đời sống, nên nó mang tính chất quan niệm
rất cụ thể” và “Hình tượng nghệ thuật
một khi đã hình thành là mang tính chất quan niệm, ngay cả vô thức cũng là quan
niệm về cái vô thức. Nhà văn không thể miêu tả đối tượng mà không có quan niệm
về đối tượng”[4;23]. Có thể khẳng định, quan niệm chính là một phương tiện
thiết yếu của sáng tạo nghệ thuật. Do vậy, tìm hiểu quan niệm nghệ thuật về con
người trong văn học trung đại nói riêng và văn học Việt Nam nói chung,
chính là bước đi thiết thực để đến với chiều sâu của các tác phẩm, của các giai
đoạn văn học.
1. Quan niệm về con người trong văn học
Macxim
Gorki đã từng khẳng định: “Văn học là nhân học”. Đó là nghệ thuật miêu tả, biểu hiện con người. Do vậy, con người chính là đối tượng chủ yếu
của văn học. Dù miêu tả thần linh, ma quỉ, đồ vật, hoặc đơn giản là miêu tả các nhân
vật, văn học đều nhằm mục đích miêu
tả và thể hiện
vào con người.
Thực tế cho thấy, không có một
tác phẩm, một tác giả hay một nền văn học nào lại chỉ đơn thuần nói về thiên
nhiên mà không liên quan đến con người. Nói cách khác, mục đích miêu tả của nhà văn là nhằm hướng đến thể hiện
con người.
Ví dụ: Truyện cổ tích, thần thoại: miêu tả thần linh, ma
quỷ, địa ngục, đồ vật...là nói đến
cái hiện thực tồn tại trong đầu óc con người, góp phần thể
hiện ước mơ, khát vọng con người.
Ngay
cả những nhân vật không thực, ví như trong Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân. Ngoài
việc bóc trần hiện thực xã hội Trung Quốc hỗn loạn thời bấy giờ, tác giả còn thể hiện sự khái quát về triết lí làm người. Con người muốn đạt được thành công phải có đầy đủ sự kiên định như Đường Tăng, lanh lợi như Ngộ
Không, cần cù như Sa Tăng và rất đời như Bát Giới.
Hay
với những dòng thơ viết về cảnh vật, thiên nhiên. Đó không phải là động tác
phác thảo vài nét cơ bản vào không gian, mà là sự bộc lộ những tâm tư, tình cảm của
nhân vật trữ tình cũng như chủ thể tác giả dấu mặt. Bởi thế mới Voltaire khẳng định: "Thơ là
âm nhạc của tâm hồn”.
Tóm
lại, trong văn học, yếu tố con người được nói đến như một điều tất yếu. Con
người chính là nhân vật trung tâm của văn học.
2. Xác
định khái niệm quan niệm nghệ thuật về con người
Quan niệm nghệ thuật
về con người là khái niệm cơ bản nhằm thể hiện khả năng khám phá, sáng tạo
trong lĩnh vực miêu tả, thể hiện con người của nhà văn. Có thể nói, nó giống như là một chiếc chìa khóa vàng góp phần gợi mở cho chúng ta tất cả những gì bí ẩn trong sáng tạo nghệ thuật
của mỗi người nghệ sĩ nói chung và từng thời đại nói riêng. Tuy nhiên, cho đến nay, mặc dù được nhiều nhà
nghiên cứu quan tâm tìm hiểu, song khái niệm quan niệm nghệ thuật về con người
vẫn còn nhiều cách định nghĩa và diễn đạt khác nhau. Cụ thể như sau:
Giáo
sư Trần Đình Sử cho rằng: "Quan
niệm nghệ thuật về con người là một cách cắt nghĩa, lí giải tầm hiểu biết, tầm
đánh giá, tầm trí tuệ, tầm nhìn, tầm cảm của nhà văn về con người được thể hiện
trong tác phẩm của mình”[5;15].
Tức, quan
niệm nghệ thuật về con người sẽ đi
vào phân tích, mổ xẻ đối tượng con người đã được hóa thân thành các nguyên tắc, phương tiện, biện
pháp thể hiện con người trong văn học của tác giả, từ đó, tạo nên giá trị nghệ thuật và
thẩm mỹ cho các hình tượng nhân vật trong đó. Vì vậy, chúng ta sẽ thấy được giá trị của hình tượng nghệ thuật trong các
tác phẩm.
Giáo sư Huỳnh Như Phương cũng góp tiếng
nói của mình bằng một cách nhìn khá bao quát: “Quan niệm nghệ thuật về con người thể hiện tầm nhìn của nhà văn và
chiều sâu triết lí của tác phẩm”.
Cũng với vấn đề về quan niệm nghệ thuật về
con người, Từ điển Thuật ngữ văn học định nghĩa như sau:
“Quan niệm nghệ thuật về con người là
hình thức bên trong, là hệ quy chiếu ẩn chìm trong hình thức tác phẩm. Nó gắn
với các phạm trù khác như phương pháp sáng tác, phong cách của nhà văn, làm
thành thước đo của hình thức văn học và cơ sở của tư duy nghệ thuật.”
Nhìn
chung, tuy khác nhau về cách diễn đạt nhưng những khái niệm trên đều nói lên
được cái cốt lõi của vấn đề quan niệm nghệ thuật về con người. Từ đó, chúng ta
có thể đi đến khái quát cách hiểu quan niệm nghệ thuật về con người như sau:
Quan niệm nghệ thuật về con người được hiểu là
cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ, cách cắt nghĩa lí giải về con người của nhà
văn. Đó là quan niệm mà nhà văn thể hiện trong từng tác phẩm. Quan niệm ấy bao
giờ cũng gắn liền với cách cảm thụ và biểu hiện chủ quan sáng tạo của chủ thể, ngay cả khi miêu tả con người giống hay không giống so với đối tượng.
Như vậy, vì trung tâm
của văn học là con người nên con người cũng chính là đối tượng thẫm mĩ thể hiện quan niệm của tác giả về cuộc sống. Người sáng tác sẽ là người
vận động, suy
nghĩ về con người, cho con người, nêu ra những tư tưởng mới để hiểu về con
người. Bởi
người ta không thể miêu tả và tạo
nên chiều sâu, tính độc đáo của hình tượng con người trong văn học nếu không
hiểu biết, cảm nhận và có các phương tiện, biện pháp nhất định.
Từ việc hướng đến xác định khái niệm quan niệm
nghệ thuật về con người, có thể khẳng định rằng: Chúng ta sẽ không thể hiểu một cách đầy đủ những đổi thay trong nội dung phản ánh
cũng như nghệ thuật biểu hiện của văn học, nếu không quan tâm tới sự vận động
của con người trong văn học, đặc biệt là vấn đề quan niệm nghệ thuật của các
tác giả về con người trong văn học. Nói cách khác, nếu bỏ qua quan niệm nghệ thuật về
con người sẽ dẫn tới cách hiểu đơn giản về bản chất phản ánh của nghệ thuật, hạ
thấp yêu cầu sáng tạo thẩm mĩ của nghệ thuật. Cho nên, tìm hiểu quan niệm nghệ
thuật về con người là điều hết sức
quan trọng.
Đây được xem là cơ sở lí luận để chúng
ta bắt tay vào tìm hiểu Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học trung
đại Việt Nam.
3. Quan niệm nghệ thuật về
con người trong văn học trung đại
Con người trong văn học trung đại Việt Nam rất phong phú. Nó khác biệt
với con người trong văn học dân gian. Mỗi thể loại có một cách quan niệm và
biếu hiện con người riêng nhưng vẫn có cái chung. Quan niệm chung chi phối văn
học trung đại Việt Nam là:
3.1. Con người vũ trụ
Thời
trung đại, con người chủ yếu sống bằng nông nghiệp nên thường dựa vào tự nhiên, khai
thác tự nhiên để sống. Do đó,
con người trung đại tin ở sự thống nhất trong thế giới. Thiên nhiên là bạn tri
âm tri kỷ của con người. Người phương Đông xưa cũng
quan niệm: thiên nhiên có mối giao hòa, giao cảm với con người bởi con
người là một "tiểu vũ trụ" có
quan hệ tương thông tương cảm với "đại vũ
trụ"-
thiên nhiên ngoại giới (Thiên nhân tương
cảm, thiên nhân hợp nhất). Con người là một yếu tố trong
mô hình vũ trụ: Thiên - Địa - Nhân hợp thành "Tam Tài". Con
người sống trong vòng "Thiên phú địa
tái" (Trời
che, đất chở). Cho nên, quan niệm
“Thiên – Địa – Nhân” hay “Thiên Nhân tương cảm” cổ xưa ấy đã chi
phối nhiều đến sự biểu hiện trong tác phẩm nghệ thuật. Do đó thơ văn trung đại
thường chỉ xuất hiện một con người đứng trước trời đất.
Chẳng hạn, thi đề quen thuộc của thơ trữ tình trung đại chính là con người
một mình đối diện, đàm tâm với thiên nhiên vũ trụ. Người anh hùng được nhắc đến
với tầm vóc sánh ngang vũ trụ:
“Trí
chủ hữu hoài phù địa trục
Tẩy
binh vô lộ vãn thiên hà.”
(Phò vua bụng những mong xoay đất,
Gột giáp sông kia khó vạch trời)
(Đăng Dung – Cảm
Hoài)
Hay trong bài thơ Thuật
hoài (Phạm Ngũ Lão), không gian nghệ thuật hiện lên là một không gian vũ trụ khoáng
đạt, rộng lớn và hoành tráng, mà trong đó, con người dù nhỏ bé song vẫn cố gắng
vươn lên ngang tầm và có khát vọng làm chủ trời đất, vũ trụ, chinh phục thiên
nhiên. Tác
giả đã phóng lớn ngọn
giáo của mình cho tương xứng với kích thước của đất nước, của vũ trụ:
“Hoành sóc giang san cáp kỷ thu,
Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu”
(Múa giáo non sông trải mấy thu
Ba quân hùng dũng nuốt sao Ngưu)
Ở bài Tự tình nổi tiếng của nữa sĩ Hồ Xuân
Hương, hình tượng con người vũ trụ nổi bật rõ:
"Trơ cái hồng nhan với nước
non".
Con người được đặt giữa không gian mênh mông
của vũ trụ nhưng không hòa nhập vào không gian bao la rộng lớn ấy mà cô độc, lẻ
loi một mình. Nữ sĩ đưa từ “trơ” ra đầu câu như để nhấn mạnh sự đối lập của một
cá thể đơn lẻ với cả vũ trụ mênh mông, để gia tăng cảm giác cô đơn, quạnh vắng
trong tâm hồn nhân vật trữ tình. Khi bất đắc chí, đau đáu vì cuộc duyên không
trọn, con người tìm về với thiên nhiên như trở về nguồn cội nhưng lại bắt gặp:
“Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”
Thiên nhiên và lòng người vốn tương ứng
tương cảm và có sự đồng điệu. Thế nên con người đang đau đáu vì cuộc duyên
không trọn vẹn thì vầng trăng kia cũng chỉ có thể là vầng trăng khuyết giữa
trời đang dần xế bóng.
Chính vì
vậy, ở đây, con người không xuất hiện với tư cách cá nhân. Họ buồn không phải
một cá nhân buồn, mà cả vũ trụ cũng buồn theo, đúng như Nguyễn Du đã từng nói:
“Cảnh nào cảnh chẳng
đeo sầu
Người buồn cảnh có vui
đâu bao giờ”.
(Nguyễn Du - Truyện
Kiều – Câu 1243-1244)
Đó là
“con người vũ trụ” sống trong quy tắc “hô, ứng”. Vui buồn của mỗi con người
buộc cả vũ trụ chuyển động.
“Vật mình, vẫy gió, tuôn mưa,
Dầm dề giọt ngọc
thẫn thờ hồn mai.”
(Nguyễn Du - Truyện Kiều – Câu 2795-2796)
Sự miêu tả gián tiếp trong thơ trung đại chính
là bị sự chi phối của quan niệm vũ trụ đó. Con người không được miêu tả như một
hiện tượng xã hội mà được như là một bộ phận của thiên nhiên, của vũ trụ. Chẳng
hạn như khi nói sự bình phục của Kiều, thì Nguyễn Du viết:
“ Vừa
tuần nguyệt sáng, gương trong”
(Nguyễn Du - Truyện Kiều – Câu 1191)
về tình yêu của từ Hải và Kiều, thì:
“ Trai anh hùng, gái thuyền quyên
Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng”
(Nguyễn Du - Truyện Kiều – Câu 2211,2212)
Ngoài ra, do quan niệm vũ trụ trong văn học ta
bắt nguồn từ rất xa xôi, gắn liền với những quan niệm thần bí, tướng số. Cho
nên, đặc biệt đối với những nhân vật xuất chúng, tác giả thường miêu tả thành
những con người dị tướng, phi thường, hun đúc một sức mạnh nào đó của vũ trụ. Đó
là những con người “chịu mệnh trời”. Từ Hải chính là nhân vật được Nguyễn Du xây
dựng dựa trên quan niệm này:
“Râu hùm hàm én mày ngài
Vai năm tất rộng thân
mười thước cao”.
(Câu
2168-2169)
Đây là con người mà chí khí và tài năng được đo
bằng chiều kích của vũ trụ. Bởi thế, nói đến Từ Hải, người đọc như thấy hiện rõ
trước mắt mình một hình ảnh cao rộng của trời đất và vũ trụ.
Như vậy, hình tượng con người vũ trụ trong dòng
chảy văn học trung đại Việt Nam đã cho chúng ta thấy được quan niệm về con
người của các tác giả trung đại. Con người đó là một cá thể vũ trụ, mang dấu ấn
vũ trụ, thiên nhiên qua đất trời, mây
nước, cỏ cây, muông… với cái đạo vững bền, sâu thẳm của nó. Đây là nét khu biệt
không thể lẫn so với các kiểu con người trong các thời kì sau của văn học.
3.2. Con người đạo đức
Toàn bộ xã hội trung đại được nhìn nhận trong
một hệ thống tôn giáo đạo đức. Cho nên, con người luôn được nhìn nhận ở phương
diện đạo đức luân lí. Vì thế, văn chương xưa chia xã hội thành hai tuyến: thiện
– ác, tốt – xấu với mục đích, chức năng nổi bật là giáo huấn:
“Trai
thời trung hiếu làm đầu
Gái
thời tiết hạnh làm câu trau mình.”
(Nguyễn
Đình Chiểu – Lục Vân Tiên)
Chính vì vậy, con người sống theo luân lí đạo
đức, theo lí trí thì được coi là chân chính; còn những người sống theo xúc cảm,
theo những luân lí trần thế, nhân bản thì bị coi thường, chê trách.
Bên cạnh đó, con người trong văn học trung đại
còn là con người của tấm lòng, con người của chí khí và việc tỏ lòng, tỏ chí
khí là nét đặc trưng của họ. Bởi vậy, cái có giá trị nhất của con người thuộc
về tấm lòng, muốn đánh giá về một con người là xem tấm lòng của họ như thế nào.
Trong Truyện Kiều, để “tỏ lòng” hiếu thảo, Kiều đã bán mình chuộc cha. Đó là
một hành động phi thường, trên thực tế nàng có thể vay tiền chuộc cha, nhưng
như thế thì quá bình thường. Tương tự, Kiều Nguyệt Nga cũng thể hiện tấm lòng
trinh liệt của mình khi ôm bức chân dung Vân Tiên nhảy xuống sông tự vẫn.
Như vậy, sự “tỏ lòng” là rất quan trọng trong
văn học trung đại. Chính nó đã làm cho hệ thống sự kiện trở nên gay gắt, căng
thẳng hơn chứ không hề xây dựng được cốt truyện đơn thuần trên những việc bình
thường hàng ngày.
Nguyễn Trãi, vị anh hùng dân tộc, vào thế kỷ
thứ XV, là một nhà quân sự thiên tài, nhà chính trị lỗi lạc, một nhà văn hóa vĩ
đại của dân tộc. Trong tác phẩm Gia huấn ca, ông đã đề cao đạo đức
luân lí trong mối quan hệ giữa cá nhân, gia
đình và xã hội. Đạo hiếu được
nhấn mạnh rất rõ:
“Dù nội ngoại bên nào cũng vậy
Đừng tranh giành bên ấy,
bên này
Cù Lao đội đức cao dày,
Phải lo hiếu kính đêm ngày khăng khăng.”
Còn
phận làm con đối với cha mẹ thì:
“Khi ấm lạnh ta hầu săn sóc
Xem cháo cơm
thay thế mọi bề
Ra vào thăm
hỏi từng khi
Người đà vô
sự ta thì an tâm”.
Trong truyện Nôm, các nhân vật luôn luôn bày tỏ
tấm lòng rất rõ rệt. Các nhân vật tự trừu tượng hóa, đem tấm lòng ra đối diện
với nhau. Trong Truyền kỳ mạn lục hình tượng con người đạo đức cũng được xuất
hiện, có thể kể đến nhân Tử Văn trong Chuyện chức phán sự đền Tản Viên.
Với hình ảnh người trí thức Tử Văn có tính tình cương trực, dũng cảm “thấy sự
gian tà thì không chịu được” Nguyễn Dữ hướng đến đề cao con người của công lý,
chính nghĩa, đồng thời phê phán và trừng trị những kẻ phi đạo đức, xảo quyệt,
làm hại nhân dân.
Tóm lại, cùng với con người vũ trụ, hình tượng
con người đạo đức cũng xuất hiện nhiều trong các tác phẩm văn học trung đại.
Qua đó góp phần làm phong phú thêm hệ thộng nhân vật của một thời kỳ văn học.
3.3. Con người đấng bậc
Cùng với mô hình con người vũ trụ và con người
đạo đức là thái độ tôn xưng với những con người tài tình, phân biệt với những
người khác. Trong văn học trung đại còn tồn tại một quan niệm khác về con người
đó là quan niệm về con người đấng bậc. Điều này được thể hiện rõ nét nhất là
trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du. Cách miêu tả của Nguyễn Du chịu sự
chi phối của quan niệm đấng bậc về con người. Trong quan niệm của ông, những
con người như Kim Trọng, Thúy Kiều, Từ Hải là những “đấng”, những “bậc” đáng
kính trọng. Họ là “đấng tài hoa” (Đạm Tiên); “bậc tài danh” (Kim Trọng); “bậc
bố kinh” (Thúy Kiều); “đấng anh hùng” (Từ Hải)... Đối với những nhân vật ấy,
tác giả dành cho những lời trang trọng, tượng trưng. Còn bọn Tú Bà, Mã Giám Sinh
là bọn vô loài, bọn chúng không có mẫu mực gì cả, mỗi đứa một vẻ, đều là
“tuồng” vô lại. Bọn chúng được miêu tả theo đặc tính thực tế về nghề nghiệp cá
nhân theo kiểu “Thoắt trông nhờn nhợt màu da”, hoặc: “Mày râu nhẵn nhụi, áo
quần bảnh bao”… rất hiện thực.
Như vậy, con đường đi đến chủ nghĩa hiện thực
của Nguyễn Du rất độc đáo, theo kiểu phương Đông. Cách “quan niệm về con người”
này chi phối một giai đoạn rất dài của Văn học Việt Nam gần mười thế kỷ.
3.4. Con người có ý thức cá nhân
Con người cá nhân trong văn học chính là
sự phản ánh cái tôi, là sự giãi bày, diễn tả thế giới tư tưởng, tình cảm riêng
tư của tác giả. Nói cách khác, con người cá nhân trong văn học chính là sự tự khắc họa tâm tư, tình cảm,
ý chí của tác giả được thể hiện thông qua những tác phẩm mà họ sáng tác. Tùy
theo từng giai đoạn, thời kỳ văn học, mà con người cá nhân có những đặc điểm
khác nhau.
Riêng đối với văn học trung đại con người
cá nhân cũng được thể hiện ở mức độ đậm nhạt và qua nhiều bình diện khác nhau.
Cụ thể, ý thức về con người cá nhân trong văn học trung đại Việt Nam trải qua
hai giai đoạn với những hình thái khác nhau. Từ thế kỉ X đến thế kỉ XVIII về cơ
bản con người cá nhân được “khẳng định
trên bình diện tinh thần, như một thực thể tinh thần, siêu nghiệm dưới các hình
thức tu dưỡng, lựa chọn xuất xử, hoàn thiện nhân cách, tự hạn chế nhu cầu vật
chất, tự đối lập với thói tục. Con người cá nhân tự khẳng định mình bằng cách
gắn mình với đạo, với tự nhiên, với nghĩa vụ trong sự nghiệp chung của của cộng
đồng. Yếu tố quyền lợi cá nhân chưa được chú ý [3;194]. Còn từ thế kỉ XVIII
đến hết thế kỉ XIX, “con người trong văn học đã kêu to lên nhu cầu về quyền
sống cá nhân, quyền hưởng hạnh phúc cá nhân như một quyền tự nhiên” [3;194].
Ví
như, con người cá nhân với ý thức khẳng định vẻ đẹp và tài năng (thơ Hồ Xuân
Hương); con người với nhu cầu bộc lộ tình cảm riêng tư, tâm sự u uẩn (thơ Nôm
Nguyễn Trãi, thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm,...); con người thể hiện cảm hứng sống ẩn
dật, hành lạc (thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Hàng); con người với tình yêu lứa
đôi, hạnh phúc, khát vọng nhu cầu trần thế (Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích
quái và Truyền kỳ mạn lục); Con người cá nhân với niềm lo sợ tuổi trẻ
chóng tàn (Chinh phụ ngâm), Con người cá nhân công danh hưởng lạc ngoài
khuôn khổ (thơ văn Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát); Con người cá nhân giải
thoát bằng hưởng lạc (thơ ca trù cuối thế kỉ XIX), Con người cá nhân trống rỗng, mất hết ý
nghĩa (thơ Nguyễn Khuyến,…
Qua quá trình khảo sát ta có thể khẳng
định rằng, con người cá nhân trong văn học trung đại Việt Nam có một quá trình
tự ý thức chậm chạp, lâu dài nhưng mạnh mẽ. Tuy qua từng thời kì lịch sử có
chịu ảnh hưởng của ý thức hệ thống trị đương thời nhưng không bao giờ đóng
khung trong ý thức hệ đó, mà phản ánh quá trình vận động, giải phóng cá tính
của con người trong thực tế đời sống.
KẾT LUẬN
Có ý kiến cho rằng, mọi sự thay đổi trong văn
học đều bắt nguồn từ sự thay đổi trong quan niệm nghệ thuật về con người. Do
vậy, đi sâu khám phá quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học trung đại
Việt Nam là bước đi ngắn nhất để chúng ta đến gần với cái bản chất nội tại của
tác phẩm, nắm được sự thay đổi, cách tân và vận động của cả một giai đoạn, một
thời kì văn học trung đại, đồng thời nêu bật được sức hấp dẫn của thời kì văn
học này cũng như khẳng định những giá trị không lỗi thời của nó về sau.
Tài
liệu tham khảo
1. Phương Lựu (chủ biên), (1996), Lí luận văn
học, Nxb Giáo dục.
2. Nguyễn Đăng Na, (2001), Đặc điểm văn học Việt Nam trung
đại – Những vấn đề văn xuôi tự sự, Nxb Giáo dục.
3. Nguyễn Hữu Sơn – Trần Đình Sử - Huyền Quang –
Trần Ngọc Vương – Trần Nho Thìn – Đoàn Thị Thu Vân, (1998), Về
con người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam, Nxb Giáo dục.
4. Trần Đình Sử, (1993), Giáo trình Thi pháp học,
Nxb ĐH sư phạm thành phố Hồ Chí Minh.
5. Trần Đình Sử, (1993), Dẫn luận Giáo
trình Thi pháp học, Nxb ĐH sư phạm thành phố Hồ Chí Minh
6. Trần Đình Sử (1995), Thời
trung đại - cái tôi trong các học thuyết, trong đời sống và trong văn học,
TCVH, (7),HN
7. Trần Đình Sử, (1999), Mấy vấn đề Thi pháp văn học trung
đại Việt Nam, Nxb Giáo dục.
8. Trần Đình Sử, (2005), Thi pháp văn học trung đại Việt
Nam, Nxb ĐH quốc gia Hà Nội.
9. Trần Đình Sử, (2005), Thi pháp Truyện Kiều, Nxb
Giáo dục
10. Lê Thu Yến (chủ biên), (2003), Văn
học Việt Nam – Văn học trung đại – Những công trình nghiên cứu, Nxb
Giáo dục.
11. Trần Thị Băng Thanh, (1999), Những
suy nghĩ từ văn học Trung đại, Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn
quốc gia.
12. Lê Trí Viễn, Đặc trưng văn học trung đại Việt
Nam, Nxb Khoa học xã hội.
1 nhận xét:
Hôm nay tra tên mình trên GG mới biết Blog bác add Blog em, rất cảm ơn và tri ân tới sự quan tâm của bác, thi thoảng mời bác cùng bạn bè ghé chơi :D
Đăng nhận xét