Thứ Bảy, 13 tháng 7, 2013

Hiện đại hóa văn học



MỞ ĐẦU
Văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng tám 1945 đã khép lại mười thế kỉ văn học trung đại để mở ra một thời kì mới với những thành tựu và kinh nghiệm còn ảnh hưởng lâu dài trong tương lai, đánh dấu một quá trình hiện đại hóa văn học sôi nổi trên cả phương diện nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật biểu hiện. Nhiều cây bút (Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn, Trần Chánh Chiếu, Hồ Biểu Chánh, Tản Đà, Vũ Đình Long, Nguyễn Hữu Kim,…) xuất hiện và khẳng định tên tuổi của mình, nhiều tác phẩm mới lạ và độc đáo thuộc các thể loại khác nhau (kịch, tiểu thuyết, phóng sự,…)chập chững” ra đời ngày càng nhiều, đã mang đến cho văn đàn nước nhà một luồng sinh khí mới với nhiều tín hiệu khởi sắc. Chính vì vậy, văn học Việt Nam nói chung và Văn học giai đoạn này nói riêng chính là “miền đất hứa” thôi thúc các nhà lí luận phê bình và những độc giả quan tâm chắp bút đào sâu nghiên cứu.
Tiểu thuyết là một trong những dấu hiệu quan trọng của văn học hiện đại. “Tiểu thuyết Quốc ngữ hiện đại Việt Nam đã phá vỡ hầu hết những quy phạm cũ, mở ra một hướng mới tự do hơn và phát triển mạnh mẽ hơn”[9;51]. Bước chuyển quan trọng trong văn xuôi giai đoạn giao thời sang hiện đại này được đánh dấu bằng tiểu thuyết đầu tay và duy nhất của Hoàng Ngọc Phách - Tố Tâm. Đây được xem là tác phẩm đặt nền móng đầu tiên cho sự phát triển của tiểu thuyết lãng mạn Việt Nam thời kì mới.
Tố Tâm đã định vị được chỗ đứng của mình ngay từ lúc mới chào đời. “Nó gây nên hiệu ứng xã hội không ngờ, làm lung lay cả luân lý phong kiến ngàn năm [10;1]”. Người trực tiếp khai sinh, tạo khí cốt và sức sống cho tác phẩm “đã hấp thu sâu sắc, có phê phán nền văn hóa truyền thống phương Đông, đồng thời ông cũng tiếp nhận nhiệt tình, có hệ thống, nền văn hóa phương Tây”[10;1], “mạnh dạn dùng kiến thức tâm lý học mà khai thác chiều sâu tế vi, phức tạp của tâm hồn con người” [10;1], từ đó đặt ra những vấn đề xã hội đang được quan tâm. Với sức hút tỏa ra, tiểu thuyết Tố Tâm đã thực sự hấp dẫn và lôi cuốn các nhà nghiên cứu cùng nhiều bạn đọc quan tâm đi sâu tìm hiểu. Có thể khẳng định rằng, cho đến nay số lượng đào sâu vào nội dung và nghệ thuật biểu hiện của tác phẩm ngày càng tăng lên, đặc biệt là tín hiệu đổi mới trong tác phẩm. Tiêu biểu có thể kể đến tiểu luận văn học của Võ Phúc Châu: Tiểu thuyết “Tố Tâm” của Hoàng Ngọc Phách trong buổi đầu hiện đại hóa Văn học Việt Nam, Lê Duy Tân với bài viết Về “Tố Tâm” của Hoàng Ngọc Phách,… Nhìn chung, các tác giả đã thể hiện sự quan tâm của mình đối với tuyệt phẩm giao thời này bằng cách mổ xẻ, xác định những điểm đổi mới cũng như chỉ ra một vài hạn chế khó tránh khỏi của tác phẩm. Đây cũng chính tiền đề gợi mở ra những khám phá mới trong nội hàm Tố Tâm.
Khách quan mà nói, mỗi phương diện nghệ thuật của tiểu thuyết Tố Tâm, từ chủ đề, đề tài cho đến kết cấu, nghệ thuật biểu hiện tính cách nhân vật,… đều là những hướng nghiên cứu thú vị. Tuy nhiên, bởi vì ngôn ngữ vốn là “yếu tố thứ nhất của văn học” (M.Gorki), “là một trong những yếu tố quan trọng thể hiện cá tính sáng tạo, phong cách tài năng của nhà văn”, cho nên từ ngôn ngữ nghệ thuật đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn là con đường tiếp nhận văn học phù hợp với bản chất của nghệ thuật ngôn từ. Mặt khác, do hạn chế về  thời gian, khả năng và tư liệu, đồng thời mong muốn tiếp cận tác phẩm một cách chuyên sâu hơn, tiểu luận chỉ giới hạn đề tài ở phạm vi ngôn ngữ tác phẩm - một trong những yếu tố cốt yếu được xem là đã làm nên thành công của tiểu thuyết Tố Tâm và đánh bóng tên tuổi tác giả Hoàng Ngọc Phách. Với việc mạnh dạn khai thác đề tài Tố Tâm – tín hiệu đổi mới trên phương diện ngôn ngữ như vậy, chủ quan người viết hi vọng rằng, tiểu luận sẽ mang đến một cái nhìn đa diện, sâu sắc và có hệ thống những đóng góp của tiểu thuyết Tố Tâm từ góc nhìn ngôn ngữ, đáp ứng phần nào nhu cầu nắm bắt, tiếp cận nghệ thuật tác phẩm và cũng là nguồn tư liệu quý cho những ai quan tâm về sau.
NỘI DUNG
               1. Tiểu thuyết Tố Tâm và ngôn ngữ văn xuôi trung đại
                  1.1. Tiểu thuyết Tố Tâm
Tố Tâm là tiểu thuyết duy nhất của Hoàng Ngọc Phách được viết xong năm 1922, in lần đầu năm 1925 tại nhà xuất bản Châu Phương, Hà Nội. Vừa mới xuất hiện, Tố Tâmlập tức gây xôn xao, sôi nổi dư luận một thời” [4;257], “từ Nam đến Bắc không mấy ai là không biết đến” [4;87]. Tác phẩm được sùng bái đến mức trở thành cuốn sách gối đầu giường, thành tự điển cho những người “nhập môn hay muốn nhập môn vào tình yêu”. Với sự ra đời của mình, “Tố Tâm đã làm dậy lên một phong trào đi tìm tự do cá nhân cho thanh niên nam nữ”[9,361] và mang lại hơi thở mới cho vận mệnh của tiểu thuyết thời bấy giờ.
Tố Tâm viết về chuyện tình trong sáng, say đắm nhưng cũng không kém phần bi thương của đôi trai tài gái sắc Tố Tâm và Đạm Thủy qua lời dẫn truyện của nhân vật kí giả. Nghỉ hè, tại trường đại học, nhân vật ký giả sang phòng bạn thân chơi là chàng tân khoa Phan Thanh Vân, giỏi văn chương, biệt hiệu là Đạm Thủy. Chàng có chiếc hộp kỉ vật đề dòng chữ “Mấy mảnh di tình”. Biết bạn có ẩn tình riêng, ký giả hỏi về chiếc hộp. Được khơi đúng tâm trạng, Đạm Thủy kể lại chuyện tình đau buồn của mình…
Một lần về quê, bị rơi mất ví dọc đường, Đạm Thủy đến trình quan huyện sở tại, được quan tiếp đãi nồng hậu. Một thời gian, chàng được nhắn đến nhà bà Án – chị của quan, để nhận lại ví. Chàng kết thân với con trai bà Án - cậu Tân. Chính dịp này, chàng sinh viên Cao đẳng Sư phạm có tài văn thơ đem lòng yêu nàng Nguyễn Thị Xuân Lan - cô con gái lớn xinh đẹp, nết na và có phần kiêu kì của bà Án. Vốn yêu thơ Đạm Thủy, nay biết mặt chàng nàng càng thêm quyến luyến. Vì từng học chữ Nho, sau học trường Pháp – Việt, đỗ sơ học lại rất yêu văn chương cho nên mỗi lần đến chơi nàng thường cùng Đạm Thủy mạn đàm văn chương. Đạm Thủy đặt cho nàng biệt hiệu là Tố Tâm. Tố Tâm vốn yêu văn thơ của Đạm Thủy qua báo đăng nay lại tri kỉ ý hợp, cả hai đều cảm thấy khó mà thiếu nhau được.
Bấy giờ, gia đình đã tính sẵn chuyện hôn nhân của Đạm Thủy. Chàng đành viết thư kể sự thật với Tố Tâm. Nàng chủ động hẹn gặp, tỏ vẻ vui tươi, nhưng kỳ thực rất đau khổ. Đến nhà nàng bất chợt, Đạm Thủy càng hiểu tình yêu mãnh liệt của nàng. Từ đó, hai người ít gặp nhau, nhưng lại thường xuyên gởi cho nhau những bức thư nhớ thương, say đắm. Đôi lần, họ hẹn nhau đi chơi vùng quê, gặp nhau ở bể Đồ Sơn. Họ càng có thêm những kỷ niệm đẹp. Tình yêu thêm nồng nàn, nhưng là một mối tình trong sáng, cao thượng, không hề pha sắc dục. Lúc này, mẹ Tố Tâm ốm nặng, gia đình buộc nàng lấy chồng. Nàng nhất quyết khước từ. Đạm Thủy, vì quá yêu, nên có ý tưởng cùng nàng trốn đi, xây hạnh phúc. Nhưng nghĩ tình gia đình, chàng bỏ ý định. Tố Tâm cũng can ngăn chàng. Tố Tâm tiếp tục bị thúc ép. Phần vì quá thương mẹ, lại thêm Đạm Thủy viết thư khuyên nhủ, nàng đành chịu lấy chồng. Trước ngày cưới, nàng hẹn gặp Đạm Thủy, trao chàng kỷ vật và khóc từ biệt. Nhận lá thư vĩnh biệt của Tố Tâm, Đạm Thủy đáp từ, tặng nàng mấy cành hoa lan mừng ngày cưới. Sau lễ cưới, nhân hội chùa Đồng Quang, hai người thoáng thấy nhau, nhưng nàng quay mặt đi. Lúc này, nàng đã ốm nặng. Về sau, biết mình không khỏi bệnh, nàng tiếp tục viết nhật ký cho Đạm Thủy. Nàng cũng kể sự thật với chồng. Rồi nàng qua đời, chỉ sau ba mươi sáu ngày lên xe hoa.
Ngày đưa tang nàng, Đạm Thủy đau xót đến viếng nhưng không dám xuất hiện. Hôm sau, chàng ra thăm mộ nàng, lấy áo mình đắp lên mộ. Trở lại thăm nhà bà Án, chàng được trao hộp kỷ vật, trong đó có quyển nhật ký của Tố Tâm. Đọc nhật ký, Đạm Thủy thương tiếc nàng, hối hận mà thành bệnh. Anh trai Đạm Thủy biết em suy sụp vì tình yêu nên kịp thời động viên, an ủi. Từ đó, Đạm Thủy quyết tâm học hành, lòng giữ hai điều thiêng liêng: công danh sự nghiệp và mối tình nồng nàn, cao thượng với Tố Tâm.
Tố Tâm được xem là cuốn tiểu thuyết hiện đại đầu tiên của nền văn học Việt Nam viết theo lối kết cấu tâm lý. Nó còn là kết tinh thành tựu của thời điểm  có tính chất giao thời của hai giai đoạn văn học. Tình yêu nam nữ trong tác phẩm đã bắt đầu thoát ra khỏi những ràng buộc khắt khe của lễ giáo phong kiến, hướng tới một chân trời mới lạ của tình yêu tự do cá nhân.

      1.2. Vấn đề ngôn ngữ văn xuôi trung đại
Thời kì trung đại, người ta vốn quan niệm “văn dĩ tải đạo”, văn chương là vẻ ngoài của sự vật và vẻ ngoài đó phải sáng, đẹp. Người viết văn luôn phải “gò câu đẽo chữ” và làm cho cái hình thức bên ngoài bộc lộ vẻ sáng rõ và đẹp đẽ  của nó. Bởi vậy, chữ viết, ngôn từ được xem là trung tâm của văn học. Không thể nói đến quy luật thi pháp văn học trung đại mà bỏ qua vấn đề ngôn từ.
Khảo sát các thời kì văn học trung đại, ta thấy những nhà văn Việt Nam một mặt sử dụng chữ Hán để sáng tác văn học, phấn đấu nỗ lực, theo kịp khuôn mẫu văn học Trung Quốc, mặt khác từng bước kiên trì tìm kiếm, nghiên cứu và cuối cùng đã kiến tạo ra được ngôn ngữ văn học mới – chữ Nôm. Tình hình đó đã tạo thành hiện tượng song ngữ, văn học song ngữ của thời trung đại ở Việt Nam. Nhìn chung, với hệ thống chữ Nôm, văn xuôi Việt Nam trung đại đã góp vào văn đàn nhiều tác phẩm truyện Nôm có giá trị. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc bên cạnh văn xuôi chữ Hán còn có sự góp mặt của văn xuôi chữ Nôm, tức ngôn ngữ văn xuôi có thể có thêm cách thể hiện mới. Song, thực chất văn xuôi Việt Nam trung đại cũng được xây dựng dựa trên nền tảng tiếp thu và chịu ảnh hưởng của văn xuôi Trung Quốc với những đặc thù mang tính chất khu vực. Thêm vào đó, tư duy thơ ít nhiều lấn át tư duy văn xuôi văn xuôi một cách rõ rệt.
Trước thế kỉ XVIII, cũng chính vì quan niệm “Văn dĩ tải tạo”, “Thi dĩ ngôn chí”, “Văn học hành chức” và quan niệm về tu từ trong lời văn, người làm thơ đặc biệt chú ý đến hệ thống các phép tu từ, thể loại, từ vựng, phong cách và nguyên tắc sử dụng ngôn ngữ. Ngôn ngữ phải hàm súc, tinh luyện, có độ chuẩn xác cao, tức kĩ thuật đúc chữ phải được chú trọng. Do đó, ngôn ngữ thơ của VHTĐ phát triển mạnh hơn ngôn ngữ văn xuôi rất nhiều. Về sau, diện mạo ngôn ngữ đổi khác, quan niệm lời văn cũng dần thay đổi nhưng vẫn chịu ảnh hưởng của văn học Trung Quốc với những “khuôn vàng thước ngọc” sẵn có như: kết cấu quen thuộc của văn xuôi trung đại là câu chuyện diễn ra theo một trật tự đã thành quy tắc: Hội ngộ - Lưu lạc – Đoàn viên; tư tưởng chi phối sáng tác không vượt ra khỏi lễ giáo phong kiến; sử dụng nhiều lối viết văn biền ngẫu, đăng đối nhịp nhàng tạo âm hưởng, nhịp điệu mượt mà, cân đối cho câu văn, mang lại nhạc điệu cho lời văn,… Đó là những biểu hiện dễ dàng nhận thấy rõ.
Tuy nhiên, chúng ta có thể khái quát một vài đặc trưng cơ bản của ngôn ngữ văn học trung đại, trong đó có văn xuôi như sau:
Thứ nhất, ngôn ngữ mang tính quy phạm rõ nét. Ngôn từ được hiểu là dấu hiệu biểu hiện hơn là lời nói phát ngôn. Các nhà văn xem ngôn ngữ văn học là bức gấm thêu được dệt bằng các chữ có âm thanh, có chủng loại, có màu sắc, theo các quy luật đối niêm nhất định. Tạo thành những khúc điệu, bức tranh. Các câu các chữ tương ứng với các “ý tượng”, và phát huy sức biểu đạt bằng “ý tại ngôn ngoại”, “ý cảnh”, cảnh giới”. Đó là ngôn ngữ lấy điệu ngâm, tả ý làm chính. Làm thơ, làm văn bắt đầu bằng luyện ý, luyện chữ, luyện câu để đạt được cái tự do trong khuôn khổ gò bó.
Thứ hai là tính hình thức, nghi thức. Ngôn ngữ văn học thời kì này mang tính hình thức, nghi thức, tạo thành nhiều công thức khuôn sáo trong diễn đạt. Đặc trưng đó thường gặp ở các hình tượng đấng bậc trong văn học. Tính hình thức, nghi thức đòi hỏi người sáng tác phải được đào tạo để biết dùng chữ, tỏ ra hay chữ. Nó khiến cho ngôn ngữ đa phần nặng chất sách vở, xa với lời nói hàng ngày. Các nhà văn trung đại ra sức dựa theo các tiền lệ trong quá khứ, những mẫu mực, công thức tương tự và đưa các nhân vật cũng như ý nghĩ của chúng vào khuôn mẫu thang bậc có trước .
Tiếp đến, tính trang trí cũng là một đặc trưng nổi bật của ngôn từ văn học trung đại. Khi mục đích ngôn chí chỉ đạo chủ yếu đòi hỏi văn từ phải đạt, nhã, trung hậu, lập thành thì cái đẹp thường ở vị trí điểm xuyết, trang trí. Ý thức thẩm mĩ tôn ti trật tự làm người xưa chuộng các hình thức niêm, đối, đối xứng, bằng trắc, biền ngẫu. Các hình thức này có tác dụng trang trí, tạo thú vui tao nhã, mở rộng không gian cảm thụ.
Và đặc trưng cơ bản sau cùng là tính cốt đắc thể. Nhìn chung, ngôn ngữ văn học trung đại thường cốt đắc thể, phù hợp với phong cách thể loại, tình huống biểu cảm. Ví như Lê Quý Đôn từng nói: “ Thơ nói chí thì phải trang trọng, thơ điếu cổ thì phải cảm khái, thơ đầu tặng thì phải dịu dàng. Phải dàn xếp ý thơ trước rồi mới đặt lời sau sao cho không làm thể thơ này lẫn với thể thơ khác thì mới là tinh là thực.
Tuy nhiên, cần khẳng định rõ, trong văn học trung đại, các nhà văn nhà thơ đều ý thức rõ ràng trong việc sử dụng ngôn ngữ, kể cả là văn xuôi Nôm. Ngôn ngữ văn xuôi trung đại ngày càng định hình và phát triển nhưng vẫn không thoát khỏi những ràng buộc về mặt thi pháp và thể hiện nội dung vốn đã định hình từ rất lâu trên thi đàn trung đại. Đó đặc điểm khu biệt nổi bật của ngôn ngữ văn xuôi trung đại.

2. Ngôn ngữ nghệ thuật trong Tố Tâm – tín hiệu đổi mới
Nói theo nhận định của nhà phê bình Thiếu Sơn, ấn tượng đầu tiên, sau cùng, lớn nhất và bao quát nhất của Tố Tâm, đối với người đọc vẫn chính là cái mới của nó. Nói đến cái mới trong văn chương cũng là đề cập đến tính tiên phong, đột phá của nhà văn, về tư tưởng và quan điểm nghệ thuật. Nó được cụ thể hóa bằng tác phẩm nghệ thuật. Nó xuyên thấm vào từng tế bào nội dung và nghệ thuật của tác phẩm như đề tài, cốt truyện, chủ đề, nhân vật, kết cấu, nghệ thuật miêu tả, ngôn ngữ, nghệ thuật kể chuyện”[16;1]. Như vậy, từ cái nhìn bao quát ta thấy, nội hàm tiểu thuyết Tố Tâm đã phát ra nhiều tín hiệu đổi mới rõ nét về cả nội dung lẫn hình thức nghệ thuật. Ở đây, tiểu luận sẽ đi sâu khai thác một trong những biểu hiện đổi mới ấy của tác phẩm – đó chính là đổi mới trên phương diện ngôn ngữ của tác phẩm.

2.1. Từ những nét mới trong lời văn
Chủ quan người viết luôn muốn được định danh cho ngôn ngữ tiểu thuyết Tố Tâm ngôn ngữ giao thời. Trong Từ điển Tiếng Việt, do Hoàng Phê chủ biên có ghi rõ: “Giao thời là khoảng thời gian chuyển tiếp từ thời kì này sang thời kì khác, cái mới và cái cũ đan xen lẫn nhau, thường có mâu thuẫn xung đột, chưa ổn định”[7,378]. Trần Đình Hượu và Lê Chí Dũng ở cuốn Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900-1930 cũng nói về hiện tượng giao thời như sau: “Tính giao thời đó biểu hiện ở sự tồn tại song song hai nền văn học cũ và mới với hai lực lượng sáng tác, hai công chúng với hai quan niệm văn học, hai ngôn ngữ văn học ở hai địa bàn khác nhau…[3;29]. Như vậy, gọi là ngôn ngữ giao thời chính là để nhấn mạnh sự đan xen giữa cái mới và cái cũ trong ngôn ngữ tiểu thuyết, trong đó hiển nhiên cái mới có phần vượt trội hơn nhiều.
Đọc Tố Tâm, độc giả đủ lí trí và nhạy cảm để nhận ra ở “cuốn tiểu thuyết bán chạy nhất” (lần in thứ nhất 3000 quyển chỉ bán trong vòng nửa tháng) những năm đầu thế kỉ XX này, ngôn ngữ vẫn còn một vài hạn chế khó tránh khỏi về mặt ngôn ngữ. Đó là lối viết gò câu chọn chữ, cân nhắc từng lời; một số sự kiện còn dài dòng, dàn trải, triết lí và còn tồn tại nhiều câu văn biền ngẫu réo rắc làm giảm đi độ căng của truyện. Điều này bị chi phối nhiều bởi hoàn cảnh xã hội và đời sống văn học thời bấy giờ. Thêm vào đó, bản thân Hoàng Ngọc Phách lại xuất thân Nho học, khó bề đoạn tuyệt với nếp tư duy, thói quen diễn đạt của lối văn chương truyền thống. Thế nhưng, thay vào đó, nhiều nét mới trong lời văn, trong lối diễn đạt lại đặc biệt lôi cuốn sự quan của độc giả, đưa bạn đọc tiến thẳng vào thế giới câu chuyện. Chính bản thân nhà văn cũng tự thừa nhận rằng mình có chịu ảnh hưởng của văn hóa phương Tây rất nhiều.
Từ hành trình thâm nhập vào tác phẩm, ta bắt gặp sự ảnh hưởng rõ rệt của Pháp đối với tác giả và đang hòa tan vào từng câu chữ trong Tố Tâm. Ở lối luận thuyết của nhân vật, Đạm Thủy thường dựa vào những ý tưởng tân học như câu: “Đàn bà sở dĩ quí là tại đàn bà là đàn bà” hay “Lòng người ta có những điều phải mà chính lẽ phải không biết đến được” (được dịch từ câu: “ Le coer a ses raisons que la raison ne connait pas”). Chàng sinh viên trường Cao đẳng này đã đưa vào tác phẩm những lời hay ý đẹp của các nhà văn Pháp kiểu như thế. Điều đó làm cho ngôn ngữ tác phẩm có thêm phần mới lạ, độc đáo và đặc sắc.
Mặt khác, ở tiểu thuyết Tố Tâm, ta còn bắt gặp nhiều câu văn ngắn gọn, thanh thoát, ngữ pháp tiếng Việt đã khá thành thục, sử dụng nhiều hư từ, tính từ, từ láy, các cặp quan hệ từ,… vào diễn đạt làm cho câu văn trở nên giãn nở tự nhiên, người đọc dần mất đi cảm giác gò bó, ràng buộc, tạo được sự chủ động trong quá trình tiếp cận văn bản tác phẩm. Ví như khi nói đến sự phát triển tình cảm giữa đôi trai tài gái sắc Đạm Thủy – Tố Tâm đã gần đạt tới độ chín mùi, tác giả viết: “Bức tường ngăn ngày càng thấy lờ dần. Lắm lúc tôi thấy lý thuyết của tôi nghĩ ra để giữ bức tường ấy được vững bền thì thường lại bị lý thuyết khác  của lòng đánh đổ”.
Hay câu văn lột tả tâm trạng của Đạm Thủy: “Tôi ở nhà nhà ra trong lòng vẫn còn thổn thức, mấy giọt nước mắt vừa rồi hình như còn đương tý tách trong tim”.
Và có cả những câu văn có cấu trúc giản dị, không cách điệu nhưng vẫn hay và hấp dẫn, ngôn ngữ diễn đạt cũng hết sức rành mạch giúp người đọc cảm nhận được ngôn ngữ mang hơi thở cuộc sống trong tác phẩm: “Có một điều anh đáng lưu ý là từ khi nàng yêu tôi trò chuyện thư từ  luôn với tôi, thì giọng văn của nàng tập nhiễm giống y như giọng văn tôi. Cách lập ngôn, lối lập thuyết cùng một thể. Nàng chịu ảnh hưởng của tôi rất mạnh, từ câu văn cho đến cử chỉ, tính tình cũng mài theo khuôn tôi cả. Tôi yêu gì là nàng yêu, tôi ghét gì là nàng ghét, tôi bảo gì nàng cũng nghe, tôi cấm nàng gì nàng cũng chịu. Đến cả những thói quen tập từ thưở nhỏ về lối đài các không hợp thời, hễ tôi chê nàng là nàng bỏ dần được hết, thành ra tôi chủ trương được lòng nàng, được tính tình và tư tưởng của nàng cả…”.
Nhiều từ ngữ mang sắc thái dân gian dân dã cũng được tìm thấy ở các câu văn như “hôm nọ”, “hễ khi”, “lúc nãy”, “nhiều lắm”, “đút túi”, “đại khái là”,… Thêm vào đó, câu văn biền ngẫu, nhịp văn đều đặn giảm hẳn (nhất là so với văn xuôi chữ Hán) và số lượng các điển tích điển cố dường như không thấy xuất hiện. Nếu có thì đó chẳng qua là cách nói ví von, nghệ thuật để nói lên tình cảnh hiện tại của nhân vật: “Thôi, chả nói chuyện xa cách nhớ thương này nữa, vì nói càng thêm gợi, gợi càng thêm buồn, mà cuộc gặp nhau vẫn khó bằng ba dịp cầu Ô thước bắt trên sông Ngân”.
Qủa thật, từ cái nhìn tổng thể, ta thấy, ngôn ngữ Tố Tâm đã thực sự chứng tỏ được quá trình hóa thân của một lối nói, lối diễn đạt mới hẳn so với văn chương trung đại.
Dựng lại câu chuyện tình cảm động giữa đôi bạn trẻ Đạm Thủy – Tố Tâm thông qua ngôn ngữ kể chuyện đan xen giữa kí giả và nhân vật chính Đạm Thủy, Hoàng Ngọc Phách đã báo hiệu bước phát triển mới của thể loại văn xuôi tự sự. Đúng như nhà văn tự nhận: “Tiểu thuyết Tố Tâm về hình thức chúng tôi xếp đặt theo những tiểu thuyết mới của Pháp, lối kể chuyện, tả cảnh theo văn chương Pháp cả về tinh thần. Chúng tôi đưa vào tác phẩm những tư tưởng mới, tâm lý nhân vật được phân tích theo phương pháp của những nhà tâm lý tiểu thuyết có tiếng đương thời”. Như vậy, “yếu tố đầu tiên” – ngôn ngữ được thể hiện trên nền tác phẩm không chỉ là chất liệu làm nên văn phẩm, là tín hiệu dự báo sự đổi mới mà còn là nhân tố dự báo sự phát triển của văn đàn văn học dân tộc.
Thể loại tiểu thuyết hình thành dưới dạng chữ quốc ngữ đã được đánh dấu tuổi trưởng thành từ chính tác phẩm xuất sắc thời bấy giờ - Tố Tâm. Khi tiếp cận tác phẩm, chắc hẳn chúng ta đều dễ dàng nhận thấy đặc điểm rõ nhất về mặt ngôn ngữ, đó là ngôn ngữ Tố Tâm nhìn chung là thứ ngôn ngữ chải chuốt, giàu cảm xúc và đầy chất trữ tình, chất thơ có khả năng đánh thẳng vào tâm lý bạn đọc. Đó là những đặc điểm vốn có của ngôn ngữ tiểu thuyết lãng mạn. Mặt khác, ra đời giữa lúc quốc văn còn trong thời kỳ phôi thai, trình độ tiểu thuyết còn thấp kém, có được một trình độ diễn đạt như thế chứng tỏ Tố Tâm xứng đáng được ghi nhận công lao to lớn trong việc làm giàu chữ quốc ngữ dân tộc. Chữ quốc ngữ với Tố Tâm đã bước một bước dài trong sự nghiệp góp phần biểu đạt ngôn ngữ của văn chương hiện đại.
Như vậy, từ cái nhìn tổng quát, trực diện và cảm nhận bước đầu, chúng ta đã phần nào xác định và khẳng định được các bước tiến, chỗ đứng xứng đáng của Tố Tâm trên văn đàn thông qua những nét mới từ góc độ ngôn ngữ. Từ đó, tạo cơ sở, niềm đam mê để có thể đi sâu mổ xẻ những phương tiện, phương thức mà Hoàng Ngọc Phách sử dụng trong việc đổi mới ngôn ngữ tác phẩm nói riêng, ngôn ngữ văn học trung đại nói chung.


2.2. Đến hình thức tổ chức ngôn ngữ
         2.2.1. Ngôn ngữ miêu tả
Lời văn chau chuốt, gọt giũa được tinh tuyển trong Tố Tâm cho thấy sự công phu, tỉ mỉ cũng như tài hoa văn chương của tác giả Hoàng Ngọc Phách thể hiện qua ngôn ngữ miêu tả. Đối với vấn đề này, trước hết chúng ta cần nói đến ngôn ngữ được sử dụng để miêu tả thiên nhiên trong tác phẩm. Cảnh thiên nhiên trong Tố Tâm dưới màn trình diễn của ngôn ngữ lần lượt hiện lên vô cùng rực rỡ và sống động trước độc giả: “… đi lang thang trong các làng quê, hay vơ vẩn ở giữa đồng lúa chín, ngồi dưới gốc cây mà ngắm đồng lúa mênh mông bát ngát, trận gió ào lay động ngọn lúa như những làn sóng bề vàng, còn những bám tre lơ thơ ở giữa đồng thì tựa như những hải đảo có cây xanh”…
Ngôn ngữ sử dụng để miêu tả thiên nhiên được vận dụng khá tự nhiên. Lời văn không gắng gượng theo kiểu ước lệ, tượng trưng như trong văn học trung đại. Thiên nhiên được nhắc đến tất nhiên cũng không hề cách điệu nhằm hướng đến cái cao nhã như trước. Nó xuất hiện như là một lối thoát yên bình cho những tâm hồn lãng mạn đang bị ý thức hệ phong kiến cầm tù. Từ cửa xe “hạng ba chật ních người” khi đi nghỉ mát ở Đồ Sơn, Đạm Thủy đưa cái nhìn tổng thể để đắm mình trong cảnh trí thiên nhiên thơ mộng: “… mở hé cánh cửa mà ngắm phong cảnh những cánh đồng thăm thẳm, bóng giăng soi xuống mấy ruộng nước trắng xóa, hình như lẫn với chân mây và in cả một trời sao xuống gầm đất. Trên mặt nước phẳng lặng chỉ thấy lô nhô những đám tre bao bọc các xóm làng, ngọn gió nồm đưa phất phới”.
Với một người có nhiều thiện cảm với thiên nhiên như Đạm Thủy, điều duy nhất có thể làm khi thấy cảnh đẹp ở Đồ Sơn chính là sự giải bày. Những lúc như thế, ngôn ngữ là phương tiện biểu đạt hữu hiệu lúc này: “Trên mặt bể mênh mông, bát ngát, sóng cuộn từng lớp đuổi nhau, chạy giỡn vào bãi cát dài phẳng nước tóe trắng phau hau. Trên bãi cát dài hàng mấy nghìn thước, phất phới áo vàng, áo đỏ, áo trắng, áo xanh như bươm bướm lượn; trẻ con reo, tiếng sóng vỗ ầm ào như tiếng chợ đông người,…”. Chiều buông xuống, tức “khi gần hết nắng thì những đám cỏ xanh đỏ lúc nãy đã hòa như một đàn cò, mình đen chân cánh trắng, lô nhô giữa làn sóng lờ lờ…”. Khi Đồ Sơn tờ mờ sáng, mọi người còn đang đương giấc, “mặt bề phẳng lặng, gió hiu hiu gợn sóng lăn tăn. Ngoài xa lơ thơ những chiếc thuyền đánh cá, buồm trắng phất phơ in vào mấy giặng núi mờ xanh ở bên chân trời hung hung đỏ. Trên bãi cát cũng phẳng phăng, chưa có một vết chân dẫm xuống; nước thủy triều lên ban đêm đã rửa sạch những ghét rác phồn hoa  chiều hôm trước đó…”. Thiên nhiên được dựng lại công phu qua lớp từ  ngữ có hồn dần hiện ra trước mắt bạn đọc.
Có thể nói, bằng bút pháp tả thực dựa trên sự quan sát, tổ chức, sắp xếp các chi tiết logic, lựa chọn từ ngữ,… Hoàng Ngọc Phách đã làm nổi bật được cái thần, cái hồn của đối tượng được miêu tả, tức thiên nhiên. Trên bức màn ngôn ngữ, người đọc dễ dàng hình dung được những nơi mà nhà văn đang nói tới. Hơn nữa, nhà văn còn vô tình trình diễn tài năng của mình ở cách viết hết sức linh hoạt, đưa người đọc đến những mảnh ghép khác nhau của bức tranh thiên nhiênđầy nhựa sống, khai phá ra một không gian mới khoáng đạt với những hình tượng thiên nhiên xinh đẹp nhưng không kém phần quyến rũ. Đó là thành công lớn của Hoàng Ngọc Phách trong việc “điều khiển, múa máy” ngôn ngữ miêu tả, đưa ngôn ngữ ngày càng tiến gần hơn với ngôn ngữ tiểu thuyết hiện đại.
Không dừng ở đó, ngôn ngữ miêu tả của tác giả còn chạm tới từng nhân vật trong truyện. Nhà văn miêu tả nhân vật khá rõ ràng, sắc sảo khiến cho người đọc dễ dàng hình dung, tượng hình về nhân vật: “Cậu bé độ chừng 15, 16 tuổi người manh mảnh, mặt trắng, da nhỏ, mặc tây phục bằng dạ tím, cổ áo có dính hai cành lá bằng kim tuyến nom rõ là một cậu bé học “Ly xê”…”. Vẻ đẹp yêu kiều của Tố Tâm trong cái nhìn tinh ý của Đạm Thủy cũng mượn ngôn ngữ thể hiện: “…cái mình thanh mảnh đi vào nhà, tay hất cái đuôi gà ra sau vai, và dém mái tóc lại, phô ra cái vẻ tương phản ở chỗ đám tóc đen tỏa trên cái gáy trắng, tôi trông thật có vẻ yêu kiều của một vị giai nhân”. Cái hay của Hoàng Ngọc Phách là dù viết về nhân vật rất nhiều nhưng không gây nhàm chán. Tác giả ghi lại vẻ ngây thơ của Tố Tâm khi vui đùa: “Nàng cứ chạy chơi như vậy hết ruộng nọ sang ruộng kia, lên bờ cao xuống bờ thấp mà dưới ánh nắng buổi chiều thu hơi nhạt nhạt, trông mặt nàng đỏ hồng hồng, giấp tý bồ hôi, dính mấy sợi tóc mây xõa xuống trán, nàng càng đẹp thêm lên”. Hay viết về cảnh Tố Tâm đi giày mà hiểu được tấm lòng của người trong cuộc: “Mưa tạnh, nước đường chảy chưa hết, nàng phải bỏ giầy đi chân, tôi thấy hai bàn chân trắng của nàng giẫm vào chỗ bùn lầy đen xám, mà tôi chạnh nghĩ đến mấy cành hoa rất đẹp rơi xuống đống rác ở gốc cây…        Có lúc, tác giả linh động kết hợp ăn ý giữa tả cảnh và người, trăng “lơ lửng trên mấy hàng tre, bây giờ đã đủng đỉnh ngang trời. Bóng giăng xuyên qua cửa soi ngang”, “mặt Tố Tâm một nửa biêng biếc xanh, một nửa mờ mờ trắng. Hồng nhan dưới bóng nguyệt, có một vẻ đẹp lạ thường,…”. Có khi, cảnh vật đồng tâm trạng với nhân vật, Đạm Thủy nhìn “phong cảnh Hồ Tây bấy giờ ủ dột lạ thường...vẫn da trời kia, vẫn mặt nước ấy, núi Tam Đảo vẫn lờ mờ đằng xa, chiếc thuyền ván vẫn từ từ qua lại, thân thế vẫn thân thế năm xưa, mà sao trông phong cảnh rất âu sầu hình như đương vì tôi mà thương người vừa đi đó”. Khi đi thăm mộ Tố Tâm, Hoàng Ngọc Phách lại dùng ngôn ngữ làm công cụ nắm bắt cái buồn, cái hoang sơ, lụi tàn sức sống của cảnh vật: “Đồng không vắng vẻ, gió thổi, mưa sa, một nấm mồ nằm bên cái gò con cỏ úa, in vết trâu bò qua lại và dấu chân những người đưa đám mới đi”… “xa trông những giọt mưa bay mờ mờ trắng, mấy hàng tre gió lướt đổ ngà ngà, những con chim bạt gió kêu bầy, mấy con bê lạc đàn gọi nạ…
Qủa thật, ngôn ngữ kết hợp với nghệ thuật miêu tả đã mang đến cho văn bản tiểu thuyết những dòng, những câu văn, đoạn văn đặc sắc, mới lạ, góp phần thể hiện sự đổi mới của Tố Tâm cũng như ngòi bút tài hoa của Hoàng Ngọc Phách. Do vậy, có thể nói, tác giả đã rất thành công khi sử dụng thành thục ngôn ngữ miêu tả trong quá trình kiến tạo nên tiểu thuyết Tố Tâm.
        
         2.2.2. Ngôn ngữ kể chuyện
Tiểu thuyết Tố Tâm đã đạt được những thành công nhất định trên phương diện ngôn ngữ kể chuyện. Với ngôn ngữ kể giản dị, mạch lạc, trong sáng và hấp dẫn, tác giả đã mang tác phẩm đến gần hơn với bạn đọc chúng ta. Thật ra, chào đời giữa lúc quốc văn còn trong thời kỳ phôi thai, trình độ tiểu thuyết còn thấp kém, có được trình độ diễn đạt như thế trong lời kể chuyện Tố Tâm đã chứng tỏ mình xứng đáng được ghi nhận công lao làm giàu chữ quốc ngữ.
Trong tiểu thuyết Tố Tâm, có hai chủ thể xưng “tôi” – những cái tôi “kép”. Cái tôi thứ nhất là của kí giả, giữ nhiệm vụ dẫn dắt, giao tiếp. Cái tôi còn lại là của nhân vật chính Đạm Thủy giữ quyền kể chuyện - kể về câu chuyện tình yêu lãng mạn nhưng cũng không kém phần đau thương của mình. Thế nhưng, mỗi người kể chuyện lại đứng ở những điểm nhìn khác hẳn nhau. Cái tôi kí giả đứng từ điểm nhìn bên ngoài, còn cái tôi Đạm Thủy lại xuất phát từ điểm nhìn bên trong. Thông thường, người kể chuyện từ ngôi thứ nhất như vậy diễn ra khi có một nhân vật đóng vai trò kể chuyện từ đầu đến cuối. Tuy nhiên, để tránh lối tư duy đơn điệu ấy, Tố Tâm đã tự làm mới mình bằng cách làm cho câu chuyện không chỉ được kể bởi một nhân vật tôi mà còn có thêm một vai dẫn dắt ở ngôi thứ nhất nữa để kể những chuyện khác nhau từ những điểm nhìn khác nhau. Như vậy, một khi đã xuất phát từ những điểm nhìn khác nhau thì ngôn ngữ kể chuyện cũng sẽ khác nhau, chúng đa dạng hơn rất nhiều.
Đối với ngôi thứ nhất xưng tôi là kí giả, trong đoạn hồi kí “Mấy lời của người chép chuyện” kí giả đã khẳng định “Mới đây, kí giả nghe được câu chuyện riêng của bạn vừa kể lại mà bạn là vai chính trong truyện này, chuyện rất hợp với điều quan sát kể trên kia, nên kí giả chép ra đây…” cho thấy, ngay từ đầu tác giả đã nhận mình chẳng qua chỉ là người “chép” chuyện. Song, ngôn ngữ của người “chép” chuyện này nếu không có tài hoa thì khó lòng tạo ra sức ảnh hưởng mạnh mẽ đối với tầng lớp thanh thiếu niên đương thời. Đành rằng, tiểu thuyết Tố Tâm gây “sốc” bởi nội dung lạ, lạnh lùng đánh vào khuôn giáo của xã hội bấy giờ nhưng thành công về nghệ thuật cũng không thể phủ định. Ở đây, với vai trò dẫn dắt câu chuyện thông qua ngôn ngữ kể, nhân vật kí giả đã là người  trần thuật lại khá cụ thể, tỉ mỉ, mạch lạc quá trình từ lúc kí giả gặp và được nghe Đạm Thủy kể lại câu chuyện tình xúc động, giúp người đọc dễ dàng hiểu và nắm bắt cốt truyện hơn.
Sau khi tác giả đưa người đọc vào nội dung chính của chuyện bằng ngôn ngữ diễn giải ở màn mở đầu, kí giả xuất hiện khá mờ nhạt, thậm chí ngôn ngữ kể chuyện biến mất. Khảo sát các chương trong tác phẩm ta thấy, chỉ có đoạn Đạm Thủy kể đến việc Tố Tâm viết thư cho mình thì nhân vật hơi mệt nên đi tựa lưng và uống nước. Chỉ còn kí giả đọc thư Tố Tâm và có đôi lời cảm nhận, bản thân “không phải là người trong cuộc mà xem xong bức thư này cũng hơi chút gợn lòng”. Còn lại, kí giả chủ yếu đóng vai trò là người nghe thầm lặng khi đi vào nội dung chính của chuyện, tức kí giả gần như nhường hẳn ngôi trần thuật cho nhân vật chính kể lại. Tuy nhiên, tầm quan trọng của ngôn ngữ kí giả - ngôn ngữ giải bày - trong lời bạt là đáng ghi nhận bởi nó đã góp phần gợi ra duyên cớ, định hướng để Tố Tâm ra đời và đến với độc giả.
Ngôn ngữ kể chuyện xưng “tôi” thứ hai chính là Đạm Thủy. Đây là nhân vật say sưa kể về câu chuyện tình của mình. Mạch văn liên tục cuốn hút độc giả qua ngôn ngữ nghệ thuật sinh động. Nếu như các tiểu thuyết cùng thời nặng về những thuyết lí, giáo huấn hay những chuyện huyền hoặc, vô lí thì qua ngôn ngữ kể chuyện của Đạm Thủy, ta nghe được tiếng lòng thầm kín, riêng tư nhưng lại ánh xạ được bi kịch tinh thần của thời đại.
Nhìn chung, ngôn ngữ kể chuyện của Đạm Thủy là ngôn ngữ tự bộc bạch, phơi trải nỗi lòng của chính mình. Lời văn ở đây khá đa dạng, nó có cả lời kể trung thành với diễn biến cụ thể câu chuyện tình của họ. Bắt đầu từ việc mất cái ví, được một “thằng bé con không quen mặt” mời đến số nhà 58 nhận lại, rồi quen biết Tố Tâm, những lần đến nhà chơi, đi chơi “bể Đồ Sơn”,… Tất cả diễn biến câu chuyện được tái hiện sinh động trên phông nền của ngôn ngữ tác phẩm. Xen kẽ với kể lại câu chuyện ấy là những dòng suy nghĩ nhằm giải bày với “anh” – tức kí giả - những gì mình làm, mình nghĩ. Đó là những lời bình phẩm khá hay, ví như “Lạ cho nhan sắc ở đời có thứ đẹp nồng nàn làm cho người ta ham muốn, có thứ đẹp thanh đạm làm cho người ta kính yêu như một bức nữ thần treo ở các nhà đạo giáo” hoặc đôi lần làm người kể phải suy tư “…Còn tôi là nam nhi thì xử sự có phần tự do hơn một tí, vả xưa nay con giai tỏ tình yêu con gái một cách chính đính cũng là lẽ thường, nhưng nghĩ mình chơi nhà nàng mà quen, chứ không phải hai bên tương ngộ, vả tôi cũng đã yêu nàng lắm, trong óc đã nẩy ra lắm chuyện mơ màng, nhưng vẫn sợ cái lòng tin cẩn của bà Án và lòng quyến luyến của cậu em.”…
Có thể thấy, lối kể chuyện dù vẫn tồn tại những dòng văn chưa thoát hẳn khỏi lối biền ngẫu. Ta nghe như hơi hướng của lối viết mà câu chữ đối nhau, lời kể nhịp nhàng lộ rõ: “Hai bên tuy không nói ra mà định nhận là anh em, lấy tình bạn bè ra mà đối đãi”, “Cuộc đời của em là đời vẩn vơ, ái tình của em là ái tình vô hi vọng, nhưng em đã đem lòng yêu anh thì em cứ biết yêu anh, em lấy tình luyến ái của anh em ta làm khuây khỏa, còn về sau em phó mặt khuôn thiêng”,… và nhiều hình ảnh mòn cũ “liễu ủ hoa sầu, năm canh giọt lệ, sương sa gió thổi, tuyết phủ mây mờ,...”. Tuy nhiên, nhìn tổng thể, ngôn ngữ truyện đã có phần thay đổi, trở nên trong sáng, thanh thoát, linh hoạt và thành thục hơn trong việc kể tả so với văn xuôi truyền thống.
Có những dòng kể rất tự nhiên nhờ lối đệm thêm từ ngữ như trong văn nói “Đại khái như là tôi đứng dậy cầm mũ thì nàng bảo để cho người đi gọi xe đã, có khi 15 phút mà không thấy xe”,  Nàng pha nước tôi uống, lấy giầu tôi ăn, mà bắt tôi phải ăn miếng giầu nàng đưa mới nghe”, “Tôi hiểu ngay là ái tình nàng đã mạnh lắm rồi”, “…giọng văn của nàng tập nhiễm giống y như giọng văn của tôi…”,… Đồng thời, có nhiều câu văn mang đậm phong cách văn xuôi lãng mạn trong lời kể chứ chưa nói đến những bức thư nặng ân tình của nàng Tố Tâm xinh đẹp “Thư từ không thể làm cho nguôi được nỗi nhớ thương, phải gặp mặt nhau, phải trông thấy nhau, phải cùng nhau trò chuyện để nghe giọng cười, tiếng nói…”, “Một bên trời nước mênh mông một bên lứa đôi đằm thắm ái tình này, đối với cảnh vật ấy gây nên lắm vẻ ly kỳ, biết bao nhiêu ngọn bút đã tê mê mà ca tụng”,… Chính lối viết kiểu như thế này đã dự báo về sự phát triển của dòng văn học lãng mạn những năm tiếp theo.
Đặt trong Tố Tâm, tuy có hai lời kể nhưng lại được thống nhất với nhau trong mạch văn của tác phẩm. Nhìn chung, lời văn kể chuyện là lời văn được tác giả chú trọng và tinh tuyển. Nó đủ sức lôi cuốn và làm cho độc giả say mê từ đầu đến cuối truyện. Cho nên, chúng ta có thể khẳng định rằng, ngôn ngữ kể chuyện của Tố Tâm cũng chính là một trong những yếu tố quan trọng đưa tới sự đổi mới, mang tác phẩm vượt ra khỏi quy phạm của văn học Trung Đại để hướng đến phạm trù văn học Hiện đại.   

         2.2.3. Ngôn ngữ đối thoại giữa các nhân vật
Cùng với ngôn ngữ miêu tả và ngôn ngữ kể chuyện thì ngôn ngữ đối thoại giữa các nhân vật trong tiểu thuyết Tố Tâm là thành phần quan trọng không thể không nhắc đến. Bởi lẽ, ngôn ngữ đối thoại được sử dụng trong tác phẩm một mặt đi sâu khắc họa nhân vật, triển khai diễn biến câu chuyện thông qua chính lời của nhân vật, mặt khác cùng mới việc tổ chức các hình thức ngôn ngữ khác, góp phần khẳng định bút lực của Hoàng Ngọc Phách trong quá trình kiến tạo nên tác phẩm.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Lời đối thoại (đối đáp) là lời trong cuộc giao tiếp song phương mà lời này xuất hiện như là một phản ứng đáp lại lời nói trước. Lời đối thoại bộc lộ thuận lợi nhất khi hai bên đối thoại có sự tiếp xúc phi quan phương và không công khai, không bị câu thúc, trong không khí bình đẳng về mặt đạo đức của người đối thoại. Lời đối thoại thường kèm theo động tác cử chỉ biểu cảm và tạo nên bởi phát ngôn của nhiều người”. Theo đó, ta bắt gặp ở Tố Tâm khá nhiều đoạn đối thoại giữa các nhân vật với nhau. Ví như, giữa kí giả - Đạm Thủy, “thằng bé con không quen mặt” - Đạm Thủy, cậu Tân cùng Đạm Thủy, các đoạn “đối thoại dài hơi” giữa hai nhân vật chính Đạm Thủy và Tố Tâm qua mỗi lần gặp gỡ,… Cứ qua mỗi đoạn đối thoại như vậy, chúng ta sẽ ngày càng hiểu rõ hơn về nhân vật. Ở phần đầu của tiểu thuyết, sau lần gặp đầu tiên ở nhà bà Án, Đạm Thủy đã được nhận lại ví của mình, hôm sau cậu Tân đến trường gặp Đạm Thủy:
               “- Hôm nọ tôi quên thưa chuyện với ông rằng chú tôi dặn hễ khi ông nhận được ví thì viết thư cho chú tôi biết vì chú tôi sợ bỏ quên thất lạc đi chăng.
               Tôi nói:
               - Tôi đã viết thư cảm ơn quan lớn rồi!”
Đạm Thủy trong lời kể của kí giả vốn là người đa tài, giỏi văn chương, giờ đây lại thêm tính cẩn thận, lễ nghĩa, hiểu đạo lí – không cần đợi cậu Tân nhắc nhở đã vội vàng viết thư cảm ơn đến quan lớn - thì quả thật chúng ta có thể thấu được vì sao nàng Tố Tâm kiều diễm lại một lòng “trao duyên” cho chàng. Chỉ một chi tiết nhỏ, một lối ứng xử đẹp qua mấy dòng đối thoại, hình dung của người đọc về Đạm Thủy dần dần hé mở.
Hay lần đi chơi bể Đồ Sơn, không hẹn mà gặp, Đạm Thủy dậy sớm ra bãi cát thì gặp Tố Tâm ở đó, hai người cùng nhau bắt dã tràng. “Tố Tâm cầm một dã tràng xem, vô tình đọc rằng:
         “Giã tràng xe cát biển đông
          Nhọc mình mà chẳng nên công cái gì”
Tôi đáp rằng:
 - Phải, cũng đáng thương cho giã tràng lắm nhỉ, nhưng biết đâu gần đây không có hai người cũng chịu một tình cảnh như dã tràng mà chả hay có ai hiểu thấu mà thương không.
Tôi nói vậy thấy đôi mắt nàng thoáng qua một vẻ buồn, bên kia bể mặt giời cũng hé ánh nắng… hồng quân với khách hồng quân.
Chúng tôi chia tay ra về, nàng đi vài bước quay cố lại bảo tôi rằng:
                - Chiều ra, anh nhá.”
Tố Tâm xinh đẹp làm say đắm biết bao chàng trai nhưng lòng nàng đã nguyện thì quyết không thay đổi. Cả Tố Tâm và Đạm Thủy đều giỏi đàm luận và yêu văn chương nên mượn hình ảnh thực là con dã tràng để nói chuyện với nhau. Đó cũng là điều hợp lí so với hai tâm hồn cùng yêu thích văn chương như họ.
Với những đoạn đối thoại như trên, nhân vật được cụ thể hóa hơn trong tâm trí người đọc. Thế nhưng, vấn đề chúng ta muốn nhấn mạnh ở đây chính là ngôn ngữ đối thoại. Ngôn ngữ đối thoại gần như đã phát huy tối đa tác dụng của mình. Nó chính là công cụ, là phương tiện miêu tả nhân vật giúp người đọc định hình rõ nét về nhân vật. Nhà văn chú ý sử dụng ngôn từ mang sắc thái gần gũi, tiến gần hơn với ngôn ngữ cuộc sống thường ngày. Biết Tố Tâm được nhiều mối giạm hỏi, nhất là cậu Tú B có điều kiện khá tốt, rất thuận ý bà Án, Đạm Thủy dù yêu nhưng “sợ về sau mang với nàng một điều lỗi suốt đời không khi nào gỡ xong nên thường vẫn lấy nhời phải trái mà khuyên nàng vâng lời giáo huấn”, song Tố Tâm “nửa thực, nửa đùa”:
“- Em không muốn lấy chồng…
Tôi cũng nói cợt rằng:
- Em điên.
- Vâng, điên với anh.
Thậm chí, có nhiều câu văn đối thoại hết sức bình thường, dường như nó được khởi nguyên từ chính nhịp điệu của cuộc sống chứ không hề có sự chau chuốt, mài giũa. Câu văn bình dị như lời thăm hỏi thường nhật:
“- Bà lớn bớt chưa?
 - Bà con uống thuốc ông lang bên huyện đem sang chữa, nay bớt nhiều lắm, bà con đã dậy được.”
Không dừng ở đó, trong Tố Tâm còn xuất hiện trường hợp đối thoại gián tiếp thông qua những bức thư, những mảnh giấy nhỏ của Tố Tâm viết ra để đáp lời, đáp lòng với người thương và ngược lại. Nếu như những lời trong đối thoại trực tiếp chân thực, gần gũi với cuộc sống hàng ngày thì lời lẽ trong các bức thư lại là một sự thể hiện khác, “văn vẻ” hơn rất nhiều. Thế nhưng, lời văn vẫn giữ được tính rành mạch và rõ ràng gần giống với ngôn ngữ tiểu thuyết hiện đại ngày nay. Nhân vật Tố Tâm lòng đã hướng về Đạm Thủy nên khi nghe Đạm Thủy hỏi tại sao không tính cuộc trăm năm với ai cả thì nàng không nói mà buồn rầu và làm ra bộ giận giỗi. Tố Tâm đã viết gửi Đạm Thủy một mảnh giấy có mấy chữ rằng: “Em đã yêu anh thì không thể yêu ai được nữa, mà cũng không muốn yêu ai. Đã không yêu thì không lấy, vì sợ làm phiền cho một người nam nhi nữa.” Đó là những dòng văn giàu tình cảm mà ý tứ cũng vô cùng cô đọng.
Hay trong đoạn đầu của các lá thư, ta thấy dường như nhân vật đang thủ thỉ, tâm tình với người được nhận. Đó là những dòng đầy cảm xúc của cô gái trẻ tuổi đang tuổi xuân thì:
Mấy lời thú tội của kẻ non gan,
Kính gửi anh Đạm Thủy,
Khổ lòng lắm anh ơi! Nói ra thì những nhượng nhời, mà để dạ cũng đến khô héo. Anh có biết em đem lòng yêu anh đã lâu, và anh đã làm cho em thổn thức mất tháng nay rồi không? Em nói thế thì anh ngạc nhiên, nhưng thật vậy, từ khi em đọc văn thơ anh trên tờ báo thì em đem lòng yêu anh, em kính mến ba chữ tên anh như người bạn quý của em vậy. Em chưa biết người, biết mặt, em chỉ xem văn chương, tính tình, tư tưởng của anh mà em yêu, cái yêu kù thay, không biết có ai yêu lạ lùng thế không?...”
Hay những lá thư từ ngữ có chút “vụng về” song cũng không kém phần “văn hoa chữ nghĩa”:
Kính gửi anh Đạm Thủy,
Thưa anh, em được tiếp được thư anh em lấy làm vui mừng lắm, nhưng thấy chữ mà chả thấy người. Thứ năm này xin mời anh ra chơi, em mấy hôm nay hơi khó ở.
Kính chúc anh về nhà được mạnh, quý quyến bình an.”
Và có cả thư của Đạm Thủy trả lời tấm thiện tình của Tố Tâm với ngôn ngữ văn chương khá tự nhiên:
Tố Tâm em,
Bấy lâu nay anh vẫn khuyên em về chuyện gia thất, nhưng anh ngồi nghĩ lại thì tưởng như chưa nói, vì những nhời anh nói chưa hết ý anh và vì trước mặt em anh không muốn nói, nói ra em khóc làm cho anh nghẽn lời vì vậy anh phải mượn bút thay người cho tiện
Thôi em yêu anh như thế cũng là yêu rồi, đừng yêu thêm nữa mà làm anh hối hận. Em nghĩ sao?”.
Cũng cần nhận rõ, đối thoại là thủ pháp thường thấy trong văn học cổ. Do vậy, nếu dùng ngôn ngữ trong đối thoại không khéo léo thì rất dễ biến nhân vật thành nhân vật chức năng với lời văn công thức, lạnh lùng. Tuy nhiên, dù sử dụng trong Tố Tâm những câu nói mang hơi thở cuộc sống, cách xưng hô gần gũi, thân mật,…chưa nhiều bên cạnh ngôn ngữ văn chương nhưng nó đã góp phần mở đường, vẽ lối cho xu hướng sáng tác mới, gần hơn với ranh giới ngôn ngữ sinh hoạt thường nhật của đời sống ở tiểu thuyết hiện đại sau này.
Tóm lại, ngôn ngữ đối thoại trong tác phẩm đã được mở rộng chân thực với nhiều vai đối thoại khác nhau. Nhân vật ở đây không còn quan phương và cũng ít phát ngôn cho một giáo lí nào mà mang nặng tâm trạng riêng, cảm xúc riêng.  Theo đó, lời văn cũng trở nên nhẹ nhàng, tự nhiên và tạo ra nhiều xúc cảm trong lòng người đọc. Ngôn ngữ đối thoại lúc gần gũi với đời sống, khi lại bóng bẩy như lời văn chương của tiểu thuyết lãng mạn đã giúp cho ngôn ngữ tác phẩm đa dạng, thay đổi linh hoạt hơn trong quá trình xây dựng nhân vật và kiến trúc ra tác phẩm. Điều này giúp cho tiểu thuyết Tố Tâm vượt qua những hạn chế còn sót lại để đưa tác phẩm trở thành tiểu thuyết mang dấu hiệu đổi mới về ngôn ngữ văn xuôi trung đại Việt Nam.

         2.2.4. Ngôn ngữ độc thoại của nhân vật
Ngôn ngữ là công cụ quan trọng của con người. Cũng giống như hoạt động giao tiếp thường ngày, trong tác phẩm, nếu ta xem đối thoại là hình thức giao tiếp sử dụng lối nói giữa người này với người khác thì độc thoại là dạng giao tiếp đặc biệt của ngôn ngữ nhân vật, là hình thức nói với chính mình. Nói cách khác, “độc thoại nội tâm là phát ngôn của nhân vật nói với chính bản thân, trực tiếp phản ánh quá trình tâm lý bên trong; kiểu độc thoại thầm, mô phỏng hoạt động suy nghĩ, xúc cảm của con người trong dòng chảy trực tiếp của nó. Thủ pháp này được sử dụng rộng rãi trong văn học”[1;3].
Trong tiểu thuyết ghi danh tên tuổi Hoàng Ngọc Phách trên văn đàn – Tố Tâm, nhà văn sử dụng ngôn ngữ độc thoại của chính nhân vật xen kẽ trong quá trình tự thuật và những dòng nhật kí đầy tâm trạng của Tố Tâm. Theo đó, cảm xúc của nhân vật được phơi trải tự nhiên mà không gượng ép, khiến cho toàn bộ tác phẩm là một câu chuyện tâm tình rất phù hợp với tiểu thuyết. Bởi lẽ dù là một biểu hiện nhỏ nhặt nhất trong tâm lí của nhân vật cũng trở nên chi tiết và cụ thể hơn trong ngôn ngữ.
Điều khác biệt ở Tố Tâm chính là để làm giảm màu sắc chủ quan trong lối kể tự thuật của Đạm Thủy, tác giả không ngần ngại mang vào tác phẩm các lá thư của Tố Tâm với những dòng tâm tình về mình đầy xúc động. Đây là cách xử lí một cách ngắn gọn và đạt hiệu quả cao của tác giả. Nhờ đó, lời văn trở nên đa dạng, sinh động hơn, làm giảm đi phần nào lối kể chuyện đơn điệu thường thấy trong văn xuôi cổ. Như vậy, trong tác phẩm, hai nhân vật chính đều song song bộc lộ tình cảm của mình với nhau, nó là một dạng đối thoại nội tâm giữa hai nhân vật. Đạm Thủy khẳng định sự hiện hữu của mình không chỉ trong vai trò người kể chuyện mà còn xuất hiện với những lời trần tình khi tình cảm giữa chàng và nàng ngày càng sâu sắc: “Bức tường ngăn ngày càng thấy lờ dần. Lắm lúc tôi thấy lí thuyết tôi nghĩ ra để giữ bức tường ấy được vững bền thì thường lại bị lý thuyết khác của lòng đánh đổ. Nhiều khi làm việc gì khi quá táo bạo thì tôi lại tìm ngày được nhẽ phải mà tự thứ lỗi cho mình… Lắm khi trong hai con mắt nàng nhìn tôi có vẻ thiết tha hình như kêu van tôi ngỏ lời trước đi cho nàng được thỏa, mà chắc lắm lúc trong con mắt tôi cũng kêu van nàng đừng làm cho tôi một ngày kia phải thú tội với nàng.” Lời giải bày xuất phát tận sâu nơi tiềm thức như bóc trần nỗi lòng của Đạm Thủy, khiến người đọc không khỏi cảm giác đây là những suy tư, những lời độc thoại sâu kín tận đáy lòng nhân vật.
Nhiều khi Đạm Thủy thốt lên những lời độc thoại nặng suy tư: “Ôi nhân tâm! Ôi tạo vật! Nhờ ai giải hộ cái yêu cái ghét ở đời cho lòng người ta lắm khi khỏi vì ghét yêu mà sướng khổ!”
Tố Tâm, đối thoại và độc thoại xen kẽ lẫn nhau, Tố Tâm viết thư vừa để gửi Đạm Thủy nhưng trước khi được đến tay người nhận thì đó là những dòng độc thoại nội tâm đầy trăn trở của một tâm hồn đang yêu và nguyện sống chết vì tình yêu đẹp của mình: “Cuộc đời của em là đời vẩn vơ, ái tình của em là ái tình vô hi vọng, nhưng em đã đem lòng yêu anh thì em cứ biết yêu anh, em lấy tình luyến ái của anh em ta làm khuây khỏa còn về sau nữa em phó mặc khuôn thiêng.”         
               Gần như sử dụng nguyên vẹn các bức thư và nhật ký, nhất là những bức thư tay được đọc muộn màng của Tố Tâm, nhà văn Hoàng Ngọc Phách ngoài việc minh chứng cụ thể cho mối tình đầy bi kịch của Đạm Thủy – Tố Tâm thì đồng thời, ông cũng muốn để các đoạn độc thoại nội tâm của nhân vật phát huy tối đa hiệu quả nghệ thuật của nó. Điều này thể hiện rõ nhất ở chương cuối, khi Tố Tâm quyết định hi sinh chữ tình để bảo toàn chữ hiếu: “Rồi đây cánh hồng bay bổng, tin nhạn vắng tanh là cuộc đời bắt buộc...”. Ngôn ngữ được sử dụng để diễn tả hoàn cảnh và nỗi lòng nhân vật hết sức ý vị qua hình ảnh đẹp và độc đáo “tin nhạn”, “cánh hồng”. Hình ảnh thấm đượm buồn ấy không đơn thuần làm Đạm Thủy “tưởng tượng ra như sau lưng trời đất sụt xuống mà thành ra một vũng tối thăm thẳm”, như đang đứng giữa “sa tràng” mà còn kéo độc giả vào chính nỗi đau của nhân vật. Đó chính là sức mạnh của ngôn ngữ biểu hiện qua độc thoại nội tâm.
Chàng trai Đạm Thủy dù cứng rắn đến đâu cũng vô cùng đau đớn thốt lên trong thư từ biệt của mình: “Bút ơi, người đã vì ta mà giữ lấy những nhời chung thủy. Ta đã nói câu gì thì ta không quên, ta không quên vì ta là người chung tình, ta là người chung tình, nên ta buồn, ta buồn ai có biết chăng, ta vui ta chỉ mong rằng ai vui”.
Ngôn ngữ độc thoại ở Tố Tâm “tập tành” với những trang văn tâm lí của nhân vật nhưng nhờ đó mới có thể sắc bén xoáy sâu vào thế giới đầy biến động bên trong của nhân vật, ngôn ngữ tác phẩm như san sẻ bớt khúc nam ai qua dòng văn trong quyển sổ nhật kí nhỏ mà Tố Tâm để lại:
Ngày mùng 9 tháng chạp
Sau khi em đưa anh đóa hoa lan và nói câu từ biệt thì lòng em như cắt, tinh thần khác hẳn đi như người vô hồn…
Ngày mùng 10.
… Anh ơi tính tình anh đằm thắm làm gì, văn chương anh giéo giắt làm gì để xé tâm can em như vậy? Lòng em anh lấy hết rồi, hồn em anh thu hết rồi, sao anh gieo sầu trong tâm can một mối tình đằm thắm làm vậy để em nhớ thương đau đớn thế nào. Em đau đớn mà em phải cố gượng làm tươi cho yên lòng mẹ em khi bệnh nặng, và để che mắt chị em ở các nơi về…
Ngày 11.
…Ta chỉ vì thương nhau, không muốn để cho nhau thiệt nên đến tình cảnh này. Em xem thư và câu đối của anh, em phải gục đầu xuống gối, em mơ mơ màng màng hồn đi đâu mất, em không khóc được nữa hình như em hết nước mắt rồi…”
Đến:
 “Ngày 28…
Anh ơi, có phải hôm nay là ngày anh mất ví năm ngoái không, là ngày em chợt thoáng qua anh không? Cuộc kì ngộ vừa trọn một năm giời mà tình thân ái hình như cũ càng mấy thế kỷ…
Ngày mồng 5 tháng giêng…
               Em đã chết từng đoạn ruột, trông thấy anh không dám nhìn, thế mà anh chả thương phận liễu nhược này, lại còn đem lòng sắc đá mà chọi thì bao giờ em cũng chịu thua, vì lòng lòng nhi nữ chúng em không chịu được cái nỗi cắt gan ấy…
“Ngày mùng 9…
Tài mà chi, sắc mà chi, tình ái mà chi, chẳng qua là những thứ bụi hồng dính vào đâu là khổ đó! Em nói vậy chứ em vẫn coi cái khổ là thường, em giơ hai tay mà đỡ lấy. Em vẫn chê những kẻ không điềm nhiên mà chịu đựng nỗi đau lòng của mình phải kêu cầu khẩn. Anh ơi em có một thứ cảm giác biết trước là em không thể sống được nữa. Hình như em đã thấy cái chết vơ vẩn trên nóc dưới thềm…
Ngày 17…
Rồi đây sau khi hương tàn khói tỏa, có lúc nào anh qua chỗ em an giấc ngàn năm này, nhờ anh đề hộ vào gốc cây, tảng đá hay bức tường mấy chữ rằng: ĐÂY LÀ MỒ MỘT NGƯỜI BẠC MỆNH CHẾT VÌ HAI CHỮ ÁI TÌNH.
Đó là những dòng Tố Tâm viết trong khoảng thời gian xa Đạm Thủy, chỉ  “một mình mình biết một mình mình hay” với bao nhớ thương đau khổ. Nhìn chung, ngôn ngữ ở đây không còn là ngôn ngữ độc thoại thông thường như các bậc tài tử xưa kia hay sử dụng ngôn ngữ khá tinh vi trong diễn tả hoạt động rất bình thường của một  tình yêu sâu nặng. Ngôn ngữ độc thoại trong từng chữ, từng câu được viết ra như muốn đạt đến sự diễn đạt sao cho văn chương ăn khớp với nhịp điệu xảm xúc. Từ đó, tài năng của tác giả trong việc đào sâu miêu tả cảm xúc từ những góc khuất trong đời sống nội tâm phong phú của nhân vật được khẳng định, đồng thời gợi mở ra một hướng khai thác độc đáo để các nhà viết tiểu thuyết sau này phát triển sâu và rộng hơn, góp vào thi đàn nhiều ấn phẩm có giá trị cả về mặt nội dung lẫn hình thức nghệ thuật.
Như vậy, nhân vật trung đại chủ yếu được thể hiện qua hành động và đối thoại. Còn ở tiểu thuyết Tố Tâm, tác giả sử dụng khá nhiều ngôn ngữ độc thoại nội tâm. Ngôn ngữ độc thoại nội tâm của nhân vật xây dựng bằng ngôn ngữ văn chương trên cái nền của chữ Quốc Ngữ cho nên đã tạo ra được lời văn hết sức tự nhiên, không quá bóng bẩy tượng trưng, không hề gò bó như trước và cũng rất trong sáng, dễ hiểu hơn. Bởi vậy, Tố Tâm không kén bạn đọc mà dễ dàng chinh phục họ từ “yếu tố đầu tiên” - ngôn ngữ, cụ thể là nó lấy được cảm tình của người đọc từ chính ngôn ngữ độc thoại của nhân vật. Đây cũng là nét mới so với văn xuôi trung đại trước đó. Nói cách khác, ngôn ngữ độc thoại nội tâm dẫn người đọc vào thế giới nội tâm của nhân vật, làm họ tin rằng mọi chuyện mình đang đọc là có thật, chuyện do chính nhân vật kể ra. Vì vậy, kĩ thuật viết mới này đóng vai trò quan trọng trong việc làm cho một cuốn tiểu thuyết truyền thống tạo được niềm tin nơi người đọc. Đây là một trong những tiêu chí của tiểu thuyết mới.

2.3. Hạn chế của ngôn ngữ
Tố Tâm và những nét mới về mặt ngôn ngữ nghệ thuật đã được tiểu luận đi sâu khảo sát ở trên đã phần nào khẳng định được những đóng góp quan trọng của tác phẩm đối với quá trình phát triển của tiểu thuyết Việt Nam sau này. Song, cần nhìn nhận rõ rằng, thành công của tác phẩm ở đây không phải là thành tựu bất biến mà nó chỉ dừng lại ở tín hiệu, là phát thảo khái lược của một lối viết mới mà thôi. Bởi so với hoàn cảnh xã hội và đời sống văn học lúc bấy giờ, cộng với bản thân tác giả là người vốn xuất thân Nho học, khó bề đoạn tuyệt với nếp tư duy, thói văn diễn đạt của văn chương truyền thống nên khó thoát khỏi những hạn chế nhất định.
Trước hết, dù đã cố gắng hướng đến một lối viết mới song Hoàng Ngọc Phách  vẫn giữ thói quen sử dụng những câu văn biền ngẫu. Sự ràng buộc này khiến cho mạch văn có nhiều chỗ thiếu phần co giãn, linh hoạt, thậm chí quá lê thê, nặng nề. Thêm vào đó, trong nhà văn còn dư âm của văn phong trung đại, nhiều từ ngữ, nhất là kính ngữ được đưa vào tác phẩm khiến cho lời văn có phần cứng nhắc, quy phạm: “phàm những việc gì”, “quá bộ”, “độ ấy”, “làm cho tôi yêu kính”, “mấy lời thú tội của kẻ non gan”, “Tố Tâm bái”, … Đây là hạn chế dễ dàng nhận thấy nhất trong tác phẩm.
Hơn nữa, ta thấy, trong Tố Tâm xuất hiện những bài thơ trao đổi tâm tình của đôi bạn trẻ mới yêu nhau – Đạm Thủy và Tố Tâm. Vấn đề nằm ở chỗ, đây không đơn giản là sự bảo lưu của một thủ pháp truyền thống mà còn là sự lưu giữ của ngôn ngữ văn chương cũ. Các bài thơ đường luật gò gẫm, đối xứng, quy tắc bằng trắc rất chỉnh:
                     Phận liễu dám nguôi lòng sớm tối
                     Tơ đào riêng thẹn mặt non song.”
Hay:             Tặng ai mộ đóa hoa này
                     Hoa ơi, hoa nhớ lấy ngày hôm nay.
                     Trên giời phất phới mây bay,
                     Bên người cỏ nước Hồ Tây soi lòng.
                     TỐ TÂM kính tặng.”
Hay những lá thư biền ngẫu lâm ly, đọc đến nỗi phải mủi lòng, thư đầy tâm trạng mà ngôn ngữ cũng không thoát khỏi giáo huấn: “Thôi cuộc đời dâu bể, lòng thủy chung ta cứ giữ cùng nhau, trước những công việc này, em phải sớm liệu mà vâng nhời giáo huấn để yên chuyện gia đình và yên lòng anh nữa”, “Em ơi! Sinh ra gái mưa sa là phận, rủi may âu cũng sự giời, ai biết hay đâu mà tìm, biết dở đâu mà tránh, trước sau cũng một lượt, chả sớm thì chầy, một mình em ở đời như chiếc bách giữ going, chống sao cho nỗi những khi mưa to gió táp, chi bằng em theo cái lệnh “đặt đâu ngồi đấy””... Hay dùng ngôn ngữ để “gây nên một nền luân lý” nên biến nhân vật trở thành cái loa phát ngôn  thuyết lý cho đạo đức: “Em là phận gái, cái chức phẩm với đời, có cũng hay mà không cũng được, chả ai nghị luận gì, ai trách chi nữ nhi nan hóa, nhưng anh là bậc nam nhi hai vai nghĩa vụ, anh đừng làm như em mà giữ lấy một mối tình vô hy vọng. Anh là người có văn chương, có tư tưởng, anh nên nhớ rằng cái than anh không phải là một mình anh, phải làm việc cho nhà, cho nước, cho xã hội,..”. Trong đau khổ mà nhân vật lại tỉnh táo nói những lời mang màu sắc giáo huấn nghiêm trang như thế làm cho lời văn giảm đi vẻ tự nhiên của tác phẩm.
Mặt khác, ngôn ngữ triển khai các sự kiện còn khá dài dòng, dàn trải làm giảm đi độ căng của truyện, ít nhiều gây cảm giác nhàm chán cho người đọc. Đặc biệt, do tập trung miêu tả tầng lớp thượng lưu, lại được tác giả gọt giũa quá bóng bẩy nên lời ăn tiếng nói sống động của đời sống thường nhật, ngôn ngữ giàu hình ảnh của nhịp sống rất ít xuất hiện. Tất cả khiến cho Tố Tâm mang ít nhiều dáng dấp của văn xuôi trung đại.
Tuy nhiên, dù vấp phải những hạn chế như đã kể trên nhưng nhìn chung, với nhiều tín hiệu đổi mới mới mẻ trên nhiều phương diện khác nhau, Tố Tâm đã trở thành một cuốn tiểu thuyết mới đúng với ý đồ và mong muốn của tác giả là “viết một quyển tiểu thuyết khác hẳn những quyển tiểu thuyết đã có, kể cả hình thức vẫn tinh thần”.
















KẾT LUẬN
Tố Tâm là cuốn tiểu thuyết duy nhất của nhà giáo, nhà văn Hoàng Ngọc Phách, được viết năm 1922 và xuất bản lần đầu năm 1925. Tố Tâm không chỉ kể về chuyện tình đẹp và bi thương của Đạm Thủy - Tố Tâm mà còn là “cột mốc quan trọng của trào lưu văn học lãng mạn Việt Nam”, đánh dấu bước chuyển biến lớn của tiểu thuyết nước ta những năm đầu thế kỉ XX trở về sau. Với những thành công bước đầu, tiểu thuyết Tố Tâm mang tín hiệu đổi mới về đề tài, cốt truyện, chủ đề, nhân vật, ngôn ngữ… Trong đó, ngôn ngữ chính là một trong những phương diện góp phần làm mới cho tác phẩm.
Ngôn ngữ văn xuôi trung đại vốn quan niệm “văn dĩ tải đạo” nên văn chương luôn bị gò bó về cả chủ đề, đề tài lẫn hình thức thể hiện. Đặc biệt, ngôn ngữ của cả thơ lẫn văn xuôi đều rất được chú trọng. Nó phải thực sự hàm súc, tinh luyện, có độ chuẩn xác cao hệt như kĩ thuật “đúc chữ” và trên hết là đảm bảo tính quy phạm; tính hình thức, nghi thức; tính trang trí cũng như tính cốt đắc thể vốn đã được định sẵn như một công thức sẵn có. Song Tố Tâm xuất hiện đã mang đến một luồng sinh khí mới cho ngôn ngữ tiểu thuyết, đánh dấu một bước nhảy của văn xuôi Việt Nam về sau. Nói cách khác, Tố Tâmtín hiệu đổi mới trên phương diện ngôn ngữ.
Từ cảm nhận đầu tiên trong cái nhìn bao quát, đề tài bước đầu khẳng định được những nét mới trong lời văn tác phẩm. Dù khó tránh khỏi những hạn chế trong ngôn ngữ văn chương của tác giả - một người vốn xuất thân Nho học như  vẫn còn lối viết gò câu chọn chữ như trước - nhưng tác phẩm Tố Tâm vẫn mang nhiều nét mới rất đáng ghi nhận. Ngôn ngữ tiểu thuyết như mới hơn nhờ những ý tưởng tân học trong luận thuyết của Đạm Thủy; nhiều câu văn thanh thoát được cấu tứ trong cách vận dụng ngữ pháp tiếng Việt khá thành thục; sử dụng nhiều hư từ, tính từ, các cặp quan hệ từ, nhiều câu văn có cấu trúc giản dị như chưa hề được chau chuốt… làm cho câu văn tự nhiên, rành mạch, dễ hiểu, dễ tiếp nhận. Thêm vào đó, từ ngữ mang sắc thái dân gian cũng được sử dụng (dù ít) đã làm cho lời văn gần gũi hơn với cuộc sống. Song, nhìn chung ngôn ngữ Tố Tâm là thứ ngôn ngữ chải chuốt, lãng mạn, đầy chất trữ tình, chất thơ… Đó là những đặc điểm của tiểu thuyết lãng mạn.
Đến các hình thức tổ chức ngôn ngữ được sử dụng trong tiểu thuyết Tố Tâm, đó là ngôn ngữ miêu tả, ngôn ngữ kể chuyện, ngôn ngữ đối thoại giữa các nhân vật và ngôn ngữ độc thoại của  nhân vật. Với việc vận dụng khá tốt các hình thức ngôn ngữ trên, Hoàng Ngọc Phách đã thể hiện một lối thể hiện khác hẳn so với văn xuôi trung đại. Tác phẩm vừa hình ảnh, tinh vi vừa chân thật, gần gũi với cuộc sống, chinh phục được thị hiếu khó tính của giới trẻ bấy giờ - hoang mang giữa giai đoạn giao thời giữa văn học trung đại và văn học hiện đại – từ đầu đến cuối truyện. Có thể khẳng định, ra đời giữa lúc quốc văn còn trong thời kì phôi thai, trình độ tiểu thuyết còn thấp kém, có được một trình độ diễn đạt như thế, Tố Tâm đáng được ghi nhận công lao làm giàu chữ quốc ngữ.
 Tiểu luận kết thúc nhưng chưa phải và chấm hết. Thiết nghĩ, nghiên cứu tiểu thuyết Tố Tâm trên phương diện ngôn ngữ nghệ thuật để tìm ra điểm mới là vấn đề luôn hấp dẫn. Mặc dù người viết còn muốn khám phá nhiều hơn nhưng trong phạm vi của tiểu luận này, do hạn chế về khả năng, tư liệu nên chỉ có thể tìm hiểu được những vấn đề cốt lõi, không ít chỗ dừng lại ở mức độ nhận diện chứ chưa có điều kiện khảo sát và phân tích sâu rộng hơn. Song, hi vọng rằng, tiểu luận sẽ là tài liệu thiết thực, là chỗ dựa để những người quan tâm tiếp tục đi sâu khảo sát, mở ra những hướng nghiên cứu mới hơn về tác phẩm.





TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Thị Diệu – Đặng Thị Kim Thi, Vai trò của độc thoại nội tâm trong tiểu thuyết, Đại học Đà Nẵng.
2. Lê Bá Hán – Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2007), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục.
3. Trần Đình Hượu & Lê Chí Dũng (1998), Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900-1930, Nxb Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội.
4. Lê Quang Hưng (2003), Thiếu Sơn toàn tập, Nxb Văn học, Hà Nội.
5. Mã Giang Lân (chủ biên), (2000), Qúa trình hiện đại hóa Văn học Việt Nam 1900 – 1945, Nxb Văn hóa thông tin Hà Nội.
6. Phương Lựu (chủ biên) (2006), Lí luận văn học, NXB Giáo dục.
7. Vương Trí Nhàn (1996), Khảo về tiểu thuyết, Nxb Hội nhà văn.
8. Trần Đình Sử (2005), Thi pháp Văn học trung đại Việt Nam, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
9. Trần Đình Sử, (1998), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
10. Trần Đình Sử, (1993), Giáo trình Thi pháp học, Nxb Hồ Chí Minh.
11. Từ điển văn học - bộ mới, (2004), Nxb Thế giới, Hà Nội.
12. Từ điển thuật ngữ văn học, (1999), Nxb Đại Học Quốc Gia, Hà Nội.
13. http://nhavantphcm.com.vn
14. http://vanvn.net

Không có nhận xét nào: