Thơ
thiền là một nhánh độc đáo của truyền thống thi ca. Xét về phương diện thơ, nó
không thể bằng sáng tác của các nhà thơ bậc nhất. Nhưng xét về phương diện văn
hóa, triết học, thơ Thiền là tiếng thơ độc đáo, giàu tính triết mĩ và chất nhân
văn về con người, cuộc đời… Chính bởi vậy, con người trong thơ Thiền- bên cạnh
một số đặc điểm chung của mẫu hình con người văn học trung đại- còn mang nhiều
nét riêng biệt, đặc trưng cho sự hội ngộ, dung hợp giữa Thiền và thơ của dòng
thơ này.
1. Thơ thiền là gì?
Thơ
thiền xuất phát từ Trung Hoa và phát triển mạnh từ thời nhà Đường. Ở Việt Nam,
thơ Thiền phát triển mạnh vào thời Lý Trần. Tác phẩm thơ thiền thời kì này
chiếm số lượng áp đảo đáp ứng với một thời mà Phật giáo được xem là quốc giáo
của dân tộc. Riêng đối với nền văn học của một số nước khác như Ấn Độ, Triều
Tiên, Nhật Bản, dòng thơ này không tồn tại.
Xét
như một loại thơ, thơ thiền phải đảm bảo đủ 3 tính chất:
-
Một là, truyền được cách cảm nhận của thế giới về thiền học, sự nhận thức về
huyễn ảo, chân như
-
Hai là, bộc lộ được vẻ đẹp của thế giới và tâm hồn
- Ba là, thơ thiền là thơ của tầng lớp tăng lữ cấp
cao, tầng lớp tri thức đặc biệt, không giống với tình cảm Phật giáo dân gian.
Chính bởi tính chất này mà thơ thiền có tính bác học, trí thức. Người làm thơ
đa phần là nhà sư yêu nước, tướng lĩnh, nhà ngoại giao nổi tiếng nhưng trong
tâm hồn họ tôn thờ Phật giáo theo thiền tông.
Căn cứ vào 3 tính chất cơ bản trên, có thể đưa ra một
khái niệm cơ bản về thơ thiền như sau:
“ Thơ Thiền là các bài kệ, là thơ bao gồm cả kệ và thơ, nêu lên
một triết lý, một quan niệm thiền hay một bài học thiền nào đó hoặc vừa ảnh
hưởng thiền vừa mang rung động thi ca có tính trần thế. Thơ thiền là thơ của
các nhà sư và của cả những người không tu hành nhưng am hiểu, yêu thích triết
lý Phật giáo, bày tỏ trực tiếp hoặc gián tiếp triết lý, cảm xúc hay tâm lý
Thiền”.
(Nguyễn Phạm Hùng)
2. Con người trong thơ
thiền
2.1 Con người tự do
Trước hết, đó là những con người với tinh thần “phá chấp” triệt để. Tức
là, con người tự giải phóng cá tính của bản thân ra khỏi các giáo điều cứng
nhắc, ràng buộc mà thiền học gọi là “chấp”. Đây thực chất là sự phá bỏ những
trói buộc của con đường mòn tư duy, giải phóng con người đến một khoảng không
bao la của tự do trí tuệ. Chính ở tinh thần nhân văn cao đẹp này mà thơ thiền
Lý- Trần đã tạo nên những con người phi thường về nhân cách và ý nghĩ: vừa làm
vua, vừa làm tướng đuổi giặc lại vừa làm thiền sư, ẩn sĩ, nhà thơ; làm đến
vương hầu mà coi công danh như phù vân, lìa bỏ ngai vàng như trút bỏ chiếc giày
rách…
Đặc biệt, trong tinh thần “phá chấp” triệt để ấy, con người cảnh giác
cả với giáo lí, kinh điển của Phật, của Tổ, tự tìm lấy cách sống, hành động phù
hợp với mình. Huệ Năng đã không ngần ngại giễu những ai vọng ngoại sang Tây
Trúc: “Nếu ai cũng sang đấy cả thì chỗ đâu mà ở?”. Hay Trần Tung, trong
bài Ngẫu tác đã viết:
“ Giữa nhà không khói chỉ ngồi yên
Nhàn lắm Côn Lôn
sợi khói lên
Lúc mệt mỏi thời
tâm tự tắt
Cần chi niệm Phật với cầu thiền”
Con người tự do trong thơ thiền khao khát được tiêu dao tự tại, giải
thoát khỏi mọi hữu hạn trần tục để đạt đến được cái tuyệt đối của thế giới. Văn
học thiền đời Trần- do thế- hay nói nhiều đến sự hòa đồng với tự nhiên, trần
thế. Con người về gần với đời sống tự nhiên đầy sinh thú, đói thì ăn, buồn ngủ
thì nằm ngủ, tùy duyên, tùy ngộ, thuận ứng nhẹ nhàng. Tựa như cái cảnh “Thú
quê nào chán suốt ngày vui”, “Ngư ông say ngủ không ai gọi” trong thơ Không Lộ thiền sư; hay tâm thế “hồn
nhiên người với hoa vô biệt” trong “Hoa cúc” của Huyền Quang…
Cần thấy rằng tự do ở đây là tự do hướng nội, nghĩa là con người tự do
vứt bỏ tất cả để tạo lập một thế giới riêng thanh cao cho riêng mình. Nó thuận
theo lí tưởng tha thiết của Thiền tông là “nở đóa sen vàng trong lò lửa”. Theo đó, đời đối với họ
chỉ là cái lò lửa thiêu đốt con người, là địa ngục trần gian của con người. Nếu
giác ngộ thì sẽ là đóa hoa tươi trong cái lò ấy, và là đóa hoa vàng ròng, lửa
không làm hủy hoại được. Đó là khi họ đã trở thành con người siêu nghiệm, đứng
ngoài sinh, diệt, đau khổ.
2.2 Con người vô ngã
Con người vô ngã là con người “quên mình, hay đúng hơn là cả ta và vật
đều quên”, để có được những giây phút sống trọn vẹn, hòa làm một cùng vũ trụ vô
biên, không còn phân biệt được đó là mình hay là khách thể; nghĩa là vượt ra
khỏi ranh giới của sự hữu hạn để đạt tới cảnh giới tuyệt đối- niết bàn ngay nơi
trần thế.
Con người vô ngã đề cao “sự quên”. Quan trọng nhất là quên bản thân
mình, như nhà thơ Huyền Quang đã nói: “Vong thân vong thế dĩ đô vong”. Tiếp đó
là quên ngày, quên tháng, chỉ nhìn thiên nhiên biến đổi trước mắt mà biết thời
tiết. Để làm được điều này, con người hóa thân vào vũ trụ, vào thiên nhiên, cả
người, cả vật thành cái “một” của vũ trụ “nhất nhật tùng chi võng nguyệt
minh”
Nói đến vô ngã, lâu nay nhiều khi người ta vẫn ngộ nhận về nội hàm khái
niệm này. Tinh thần “vô ngã” không mang ý nghĩa phi nhân bản với cách hiểu xóa
bỏ con người cá nhân mà chính là yêu cầu giải phóng tuyệt đối với con người.
Theo đó, con người được giải phóng khỏi mọi ràng buộc của tự nhiên, xã hội và
của cả chính bản thân mình, đạt đến sự tự do tuyệt đối. Đây cũng chính là một
khía cạnh tinh thần “phá chấp” ở cấp độ cao- phá bỏ cái “chấp” khó phá bỏ nhất
là “chấp ngã”- khư khư bám vào cái tôi nghe, cái tôi nghĩ, cái tôi cảm…Con
người vô ngã vượt lên mọi sự tranh chấp tốt- xấu, phải- trái, lành- dữ.. để đạt
đến cái tâm bình đẳng và cái nhìn độ lượng đối với vạn vật.
2.3 Con người vô úy
“Vô úy” nghĩa là không sợ hãi. Con người vô úy trong thơ thiền là con
người siêu nghiệm, đứng ngoài sinh diệt, đau khổ. Trước sự tàn phai, biến ảo
của cuộc đời, con người vẫn kiên nghị “Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi/
Kia kìa ngọn cỏ gió sương đông”. Hành động tiêu biểu của con người vô úy là họ
coi biến đổi như không, không sợ hãi, không kinh ngạc, đặc biệt điềm nhiên,
bình thản trước cái chết của chúng sinh và của cả chính mình. Đó là những con
người “dĩ bất biến ứng vạn biến”. Tựa như bài kệ của Mãn Giác thiền sư:
“”Xuân qua trăm hoa rụng
Xuân tới, trăm hoa cười
Trước mắt
việc đi mãi
Trên đầu
già đến rồi
Đừng tưởng xuân tàn, hoa
rụng hết
Đêm qua sân trước một
nhành mai”
2.4 Con người vô ngôn
Xuất phát từ quan niệm ngôn ngữ hữu hạn không thể diễn đạt được chân lí
vô cùng, thiền học đề cao tuyệt đối phương châm “dĩ tâm truyền tâm”. Con người
vô ngôn trong thơ thiền mặc cho giây phút đại ngộ đến một cách tự nhiên, vô ý:
“ Cá trung khúc phá vô nhân hội
Duy hữu tùng phong họa
thử âm”
( Tạm dịch: Khúc nhạc
trong lòng ta đã hình thành mà không ai biết
Chỉ có gió trên cây thông
là họa được âm thanh ấy)
( Tự thuật- Trần Thánh Tông)
Chính trong giây phút lặng yên đạt đến sự hòa điệu với cái “đại ngã”
ấy, con người mang sức sống của vũ trụ vượt qua không gian và thời gian hữu
hạn, trở thành cái tuyệt đối đầy quyền năng và tự do.
Chính mĩ học “vô ngôn” này và sự xuất hiện con người vô ngôn trong thơ
mà thơ thiền thường yên tĩnh và hay thể hiện một tình yêu sự yên tĩnh, sự sáng
suốt, sự vững vàng. Từ trong yên tĩnh, con người cảm nhận vẻ đẹp cuộc đời qua
trực giác vô tư. Đúng như nhà mĩ học Trung Quốc Tôn Bạch Hoa đã nhận xét: “Thiền
là cái cực tĩnh trong cái cực động, cũng là cái cực động trong cái tĩnh […]
động tĩnh không chia hai, tìm thẳng tới cội nguồn sự sống”.
Kết luận
Có thể nói, con người trong thơ thiền mang những nét riêng biệt, không
dễ nhầm lẫn với con người trong các dòng thơ khác. Xưa nay, con người trong thơ
thiền vẫn là một bí ẩn. Cách phân chia như trên chỉ mang tính tương đối. Xét về
sâu xa, 4 đặc điểm về con người trong thơ thiền đã nói trên, bao gồm: con người
tự do, con người vô ngã, con người vô úy và con người vô ngôn không tách biệt
nhau. Sự phá chấp hay tinh thần vô ngã, vô úy, vô ngôn… đều nhằm đạt đến mục
đích mang lại sự tự do tuyệt đối cho con người, đưa con người đạt đến tầm con
người- vũ trụ: tức là con người hòa điệu với vũ trụ, mang tất cả sức mạnh, cái
tự do và cái tuyệt đối của vũ trụ. Ý nghĩa nhân văn cao đẹp của hình tượng con
người trong thơ thiền là chính ở đó.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét