Thứ Hai, 4 tháng 5, 2020

Các kiểu tác giả trong văn học Trung đại Việt Nam





Trước hết, tác giả là người sáng tạo ra các sáng tác văn học, vì vậy mà mọi tác phẩm văn học đều in dấu ấn của người nghệ sĩ.
Tác giả là một hiện tượng của văn hóa nghệ thuật, sản phẩm sáng tạo của một thời. Tác giả là “trung tâm tổ chức nội dung- hình thức của cái nhìn nghệ thuật. Chức năng của nghệ sĩ như một tác giả là tạo ra cái nhìn nghệ thuật và tạo ra hình thức nghệ thuật “Tôi tìm thấy mình trong hình thức , tìm thấy tính tích cực tạo hình thức có giá trị sinh sản của mình trong đó, tôi cảm thấy một cánh sống động sự vận động sáng tạo khách thể của mình , không chỉ trong hành vi sáng tác, biểu diễn ở trong cả tác phẩm nghệ thuật” (M. Bakhtin- Những vấn đề văn học và mỹ học).
Lịch sử văn học đã biết đến những kiểu tác giả khác nhau. 
Các nhà văn trung đại – dù ở phương Đông hay phương Tây, trong một mức độ lớn đều xây dựng tác phẩm của mình bằng những công thức tu từ và cốt truyện có sẵn. “Ý thức công thức , khuôn sáo làm cho kiểu tác giả này rất khó sử dụng các chi tiết đời sống mới và các chi tiết nghệ thuật bất ngờ” (Likhachop). Các tác giả văn học trung đại phương đông gắn với đạo cho nên sáng tác rất nghiêm túc .
Việc tìm hiểu loại hình kiểu tác giả sẽ giúp khám phá , giải thích những đặc điểm nội dung tương tự lẫn hình thức nghệ thuật.

Khái niệm : Kiểu tác giả trong sáng tác văn học là khái niệm nghiên cứu mối quan hệ, sự chi phối giữa kiểu , loại hình tác giả với đặc trưng về nội dung tư tưởng và hình thức nội dung của tác phẩm văn học.

Theo Trần Đình Sử , có 2 tiêu chí phân chia kiểu tác giả văn học Việt Nam trung đại, đó là:
- Theo thể loại
- Theo văn hóa, tư tưởng.

Từ đó có các kiểu tác giả văn học Việt Nam trung đại tương ứng là:
1. Kiểu tác giả Văn học Việt Nam trung đại từ tiêu chí thể loại:

+ Kiểu tác giả văn 

Đó là kiểu tác giả gắn liền với các tác phẩm văn xuôi bao gồm rất nhiều thể loại : truyện ngắn, tiểu thuyết, kí sự, đó là các sáng tác theo thể loại truyền kì…. Kiểu tác giả này tạo nên các tác phẩm rất gần với sử học, nó tạo ra tính “văn sử triết bất phân” trong văn học trung đại Việt Nam.
Biểu hiện trong sáng tác: thể hiện ngay ở nhan đề tác phẩm thường gắn với các yếu tố: lục , sự, kí sự, kí lục, quái, chích quái….

VD: Truyền kì mạn lục, Lĩnh Nam chích quái, Thượng kinh kí sự, Hoàng Lê nhất thống chí……

+ Kiểu tác giả thơ.

Trong Văn học Việt Nam trung đại thì thơ được hiểu rộng rãi gồm cả thơ và văn vần.
Trong lịch sử văn học Việt Nam thì kiểu tác giả thơ xuất hiện trước kiểu tác giả văn xuôi.
Kiểu tác giả thơ gắn liền với quan niệm văn học trung đại “thi dĩ ngôn chí”, “thi ngôn chí” (lấy thơ làm công cụ , phương tiện để người nghệ sĩ giãi chí, tỏ lòng).
Biểu hiện trong thơ ca trung đại : là nhan đề các bài thơ thường gặp như : “Ngôn chí”, “ngôn hoài”, “thuật hoài”, “thuật hứng”, “mạn hứng”….là những cái tên phổ quát của văn học Việt Nam trung đại. Dù cái tên có khác nhau nhưng khi dịch sang Tiếng Việt đều được thể hiện bằng một cái tên là “Tỏ lòng” . Tỏ lòng là đặc điểm lớn nhất , cơ bản nhất trong sáng tác thơ ca của kiểu tác giả thơ trong văn thơ trung đại.

2. Kiểu tác giả Văn học Việt Nam trung đại từ tiêu chí văn hóa, tư tưởng.

Văn học Việt Nam trung đại (hay còn gọi là văn học phong kiến) chi phối dưới ánh sáng của các học thuyết tôn giáo: Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo,Ki tô giáo, Ấn Độ giáo. Nhưng ảnh hưởng của sâu sắc đối với xã hội và nhất là đối với văn học là Phật giáo và Nho giáo, tương ứng là nhìn từ góc nhìn tư tưởng văn hóa thì Văn học Việt Nam trung đại có 2 kiểu tác giả:

Kiểu tác giả văn học phật giáo.

Phật giáo du nhập vào Việt Nam từ rất sớm và phát triển đến đỉnh cao vào đầu đời Lý vì vậy đã hình thành đội ngũ trí thức từ đời Lý. Đội ngũ này vừa nghiên cứu Phật giáo lại vừa là tín đồ Phật giáo ; vừa là các nhà chính trị vừa là các nhà thơ, nhà văn.
Các trí thức Phật giáo sáng tác thơ văn , họ thuộc kiểu tác giả văn học Phật giáo. Thiền gia sùng thượng sự siêu việt của con người khỏi thế giới thực tại đẻ thăng hoa đến chốn linh không bằng trực giác dựa trên quá trình cảm nhận tự nhiên .
Đặc điểm sáng tác văn chương: Một mặt thuyết lí, tuyên truyền cho kinh nhà Phật; Mặt khác lại không hoàn toàn thoát tục mà vẫn thể hiện niềm tin, sự gắn bó với cuộc sống . Ví dụ như bài “Cáo tật thị chúng”- Mãn Giác thiền sư.

Kiểu tác giả văn học Nho giáo

Văn học Việt Nam trung đại về căn bản là văn học gắn liền và chịu sự chi phối của học thuyết Nho giáo . Vì vậy, kiểu tác giả văn học Nho giáo trở thành kiểu tác giả phổ biến trong nền văn học này. Tuy nhiên, xã hội phong kiến nói chung và học thuyết Nho giáo nói riêng cũng thăng trầm theo bước phát triển của lịch sử . Chính vì vây , tầng lớp trí thức cũng là tác giả cơ bản của nền văn học Việt Nam trung đại không thuần nhất.

Trong kiểu tác giả văn học Nho giáo lại có kiểu tác giả nhà nho hành đạo,kiểu tác giả nhà nho tài tử và kiểu tác giả nhà nho ẩn dật.
Việc phân chia kiểu tác giả văn học Nho giáo thành 3 kiểu tác giả nhà nho trên có ý nghĩa để nghiên cứu loại hình tác giả văn học trung đại. Đặc biệt kiểu tác giả nhà nho tài tử là một hiện tượng vô cùng đặc biệt, được xuất hiện từ kiểu nhà nho tài tử, họ sáng tác văn chương và trở thành kiểu tác giả nhà nho tài tử. Tuy nhiên do tính chất giao thoa thể hiện ở nhiều nhà văn lớn nên kẻ sĩ, nho sĩ chỉ có 2 con đường xuất - xử. Người ở ẩn bao giờ cũng bất mãn với cuộc đời , lánh đời đẻ bảo toàn tính mạng và khí tiết (nhà nho ẩn dật). Về sau hành động đi ở ẩn được xem là hành động hành động của một con người không ham công danh, không phụng quyền quý, được tôn là cao sĩ, “vẻ vang hơn người làm quan”. Ranh giới giữa nhà nho hành đạo và nhà nho ẩn dật là không dễ phân biệt do nhiều nhà nho ban đầu ra làm quan sau đi ẩn dật và có thể vẫn tiếp tục ra làm quan. 



Không có nhận xét nào: