Nguyễn Huy Thiệp
Khi viết những dòng này, tôi đã thức tỉnh
trong vài người quen những cảm xúc mà thời gian đã xóa nhòa, và tôi đã xâm phạm
đến cõi yên tĩnh nấm mồ của chính cha tôi. Tôi buộc lòng làm vậy, và xin người
đọc nể nang những tình cảm đã thúc đẩy tôi viết mà lượng thứ cho ngòi bút kém cỏi
của tôi. Tình cảm này, tôi xin nói trước, là sự bênh vực của tôi đối với cha
mình.
Cha tôi tên là Thuấn, con trưởng họ Nguyễn.
Trong làng, họ Nguyễn là họ lớn, số lượng trai đinh có lẽ chỉ thua họ Vũ. Ông nội
tôi trước kia học Nho, sau về dạy học. Ông nội tôi có hai vợ. Bà cả sinh được
cha tôi ít ngày thì mất, vì vậy ông tôi phải tục huyền. Bà hai làm nghề nhuộm vải,
tôi không tường mặt, chỉ nghe nói là một người đàn bà cay nghiệt vô cùng. Sống
với dì ghẻ, cha tôi trong tuổi niên thiếu đã phải chịu đựng nhiều điều cay đắng.
Năm mười hai tuổi, cha tôi trốn nhà ra đi. Ông vào bộ đội, ít khi về nhà.
Khoảng năm… cha tôi về làng lấy vợ. Chắc
chắn cuộc hôn nhân này không do tình yêu. Mười ngày nghỉ phép bề bộn công việc.
Tình yêu đòi hỏi điều kiện, trong đó thời gian cũng cần.
Khi lớn lên, tôi chăng biết gì về cha
mình cả. Tôi chắc mẹ tôi hiểu về cha tôi cũng ít. Cả đời cha tôi gắn với súng đạn,
chiến tranh.
Tôi đi làm, lấy vợ, sinh con. Mẹ tôi già
đi. Cha tôi vẫn đi biền biệt. Thỉnh thoảng cha tôi cũng ghé về nhà, nhưng những
lần về đều ngắn. Cả những bức thư cha tôi gửi về cũng ngắn, dầu rằng dưới những
dòng chữ, tôi biết ở đấy ẩn chứa nhiều tình thương cùng với âu lo.
Tôi là con một, tôi đã chịu ơn cha tôi về
đủ mọi mặt. Tôi được học hành, được du ngoại. Cả những cơ sở vật chất gia đình
cũng do cha tôi lo liệu. Ngôi nhà tôi ở ven nội, xây dựng trước khi cha tôi về
hưu tám năm. Đấy là một biệt thự đẹp nhưng khá bất tiện, tôi đã xây cất dựa
theo thiết kế của một chuyên gia kiến trúc trứ danh, bạn của cha tôi, ông này đại
tá, chỉ thạo việc xây doanh trại. Năm bẩy mươi tuổi, cha tôi về hưu với hàm thiếu
tướng.
Mặc dầu biết trước, tôi vẫn ngỡ ngàng
khi cha tôi về. Mẹ tôi đã lẫn (bà hơn cha tôi sáu tuổi), vì vậy thực ra ở nhà
chỉ có mình tôi có những tình cảm đặc biệt với sự kiện này. Mấy đứa con tôi còn
bé. Vợ tôi biết ít về ông, vì hai chúng tôi lấy nhau khi mà cha tôi đang bặt
tin tức. Bấy giờ đang có chiến tranh. Tuy thế, ở trong gia đình, cha tôi bao giờ
cũng là hình ảnh của niềm vinh dự, tự hào. Cả ở trong họ, trong làng, tên tuổi
cha tôi cũng được mọi người ngưỡng vọng. Cha tôi về nhà, đồ đạc đơn sơ. Cha tôi
khỏe. Ông bảo: “Việc lớn trong đời cha làm xong rồi!” Tôi bảo: “Vâng”. Cha tôi
cười. Tâm trạng xúc động lây sang cả nhà, mọi người chuếnh choáng đến nửa tháng
trời, sinh hoạt tùy tiện, có hôm mười hai giờ đêm mới ăn cơm chiều. Khách khứa
đến chơi nườm nượp. Vợ tôi bảo: “Không để thế được”. Tôi cho mổ lợn, đi mời họ
hàng làng nước đến để chia vui. Làng tôi tuy gần thành phố nhưng mà tập tục
nông thôn còn giữ. Đúng một tháng sau, tôi mới có dịp ngồi với cha tôi bàn chuyện
gia đình.
II
Trước khi kể tiếp, xin nói về gia đình
tôi. Tôi ba mươi bẫy tuổi, là kỹ sư, làm việc ở Viện Vật lý. Thủy, vợ tôi, là
bác sĩ, làm việc ở bệnh viện sản. Chúng tôi có hai con gái, đứa mười bốn, đứa
mười hai. Mẹ tôi lẫn lộn, suốt ngày chỉ ngồi một chỗ.
Ngoài những người trên, gia đình tôi còn
có ông Cơ và cô con gái gàn dở của ông. Ông Cơ sáu mươi tuổi, quê Thanh Hóa. Vợ
tôi gặp cha con ông khi nhà của họ bị cháy, cơ nghiệp mất sạch. Thấy cha con
ông tốt bụng, đáng thương, vợ tôi sắp xếp cho họ ở với chúng tôi. Cha con ông ở
dưới nhà ngang, sinh hoạt riêng rẽ nhưng mọi chế độ thì do vợ tôi chu cấp.
Không có hộ khẩu, họ không có những tiêu chuẩn lương thực, thực phẩm như những
người dân khác trong thành phố. Ông Cơ hiền lành, chịu khó. Thường ông đảm nhiệm
việc chăm vườn tược, lợn gà và đàn chó giống. Nhà tôi nuôi chó béc-giê. Tôi
cũng không ngờ việc kinh doanh chó lại thu lợi lớn. Khoản thu này trội nhất
trong nhà. Cô Lài mặc dầu gàn dở nhưng lại xốc vác và nội trợ giỏi. Vợ tôi dạy
cô cách thức nấu bóng, nấu nấm, nấu gà hầm. Cô bảo: ” Cháu chẳng ăn thế bao giờ”.
Cô không ăn thật. Cả hai vợ chồng và hai con tôi không phải lo toan công việc
gia đình. Từ ăn uống, giặt giũ, tất cả giao cho hai người giúp việc. Vợ tôi cầm
chịch các khoản chi tiêu. Tôi bận nhiều việc, hiện đang vùi đầu vào công trình ứng
dụng điện phân. Cũng cần nói thêm: quan hệ tình cảm của vợ chồng tôi êm thấm.
Thủy có học thức, sống theo lối mới. Chúng tôi suy nghĩ độc lập, nhìn nhận vấn
đề xã hội tương đối giản dị. Thủy am tường các việc lo liệu kinh tế cũng như dạy
dỗ con cái. Còn tôi, hình như tôi khá cổ hủ, đầy bất trắc và thô vụng.
III
Tôi quay lại đoạn kể cha con tôi bàn việc
gia đình. Cha tôi bảo: “Nghỉ rồi, cha làm gì?” Tôi bảo: “Viết hồi ký”. Cha tôi
bảo: “Không!”. Vợ tôi bảo: “Cha nuôi vẹt xem”. Trên phố dạo này nhiều người
nuôi chim hoạ mi, chim vẹt. Cha tôi bảo: “Kiếm tiền à?” Vợ tôi không trả lời.
Cha tôi bảo: “Để xem đã!” Cha tôi cho mỗi người trong nhà bốn mét vải lính. Ông
Cơ và cả cô Lài cũng thế. Tôi cười: “Cha bình quân! ” Cha tôi bảo: “Đấy là lẽ sống”.
Vợ tôi bảo: “Cả nhà đồng phục thì thành doanh trại”. Mọi người cười ồ.
Cha tôi muốn ở một phòng dưới dãy nhà
ngang giống như mẹ tôi. Vợ tôi không chịu. Cha tôi buồn. Việc để mẹ tôi ăn
riêng, ở riêng làm ông bứt rứt. Vợ tôi bảo: ‘Tại mẹ lẫn”. Cha tôi đăm chiêu.
Tôi cũng không hiểu sao hai đứa con gái của tôi ít gần ông nội. Tôi cho chúng học
ngoại ngữ, học nhạc. Chúng lúc nào cũng bận. Cha tôi bảo: “Các cháu có sách gì
mang cho ông đọc”. Cái Mi cười. Còn cái Vi bảo: “Ông thích đọc gì?” Cha tôi bảo:
” Cái gì dễ đọc”. Hai đứa bảo: “Thế thì không có”. Tôi đặt báo hàng ngày cho
ông. Cha tôi không thích văn học. Văn chương nghệ thuật bây giờ đọc rất khó
vào.
Một hôm tôi đi làm về, cha tôi đứng ở
dãy nhà vợ tôi nuôi chó và gà công nghiệp. Trông ông không vui. Tôi hỏi: ” Có
chuyện gì thế?” Ông bảo: “ông Cơ và cô Lài vất vả quá. Họ làm không hết việc,
cha muốn giúp họ được không?” Tôi bảo: “Để con hỏi Thủy”. Vợ tôi bảo: “Cha là
tướng, về hưu cha vẫn là tướng. Cha là chỉ huy. Cha mà làm lính thì dễ loạn cờ”.
Cha tôi không nói năng gì. Cha tôi nghỉ hưu nhưng khách khứa nhiều. Điều đó làm
tôi ngạc nhiên, thậm chí thích thú. Vợ tôi bảo: “Đừng mừng… họ chỉ nhờ vả. Cha ạ,
cha đừng làm gì quá sức”. Cha tôi cười: “Chẳng có gì đâu… cha chỉ viết thư. Thí
dụ: ‘Thân gửi N. tư lệnh quân khu… Tôi viết thư này cho cậu… Hơn năm mươi năm,
đây là lần đầu tôi ăn tết mồng ba tháng ba dưới mái nhà mình. Hồi ở chiến trường,
hai đứa chúng mình đã từng mơ ước v. v… Cậu nhớ cái xóm ven đường, cô Huệ đã
làm bánh trôi bằng bột mì mốc. Bột mì bê bết trên lưng v.v… Nhân đây M. là người
tôi quen, muốn được công tác dưới quyền của cậ u v.v… “. Cha viết như thế được
không?” Tôi bảo: “Được”. Vợ tôi bảo: “Không được! ” Cha tôi gãi cằm: “Người ta
nhờ mình”.
Cha tôi thường bỏ thư viết vào phong bì
đựng công văn bằng giấy cứng, cỡ 20×30, trên có in chữ Bộ quôé phòng, rồi đưa
cho người nhờ vả mang đi. Sau ba tháng, hết sạch loại phong bì ấy. Ông làm
phong bì bằng giấy bìa học sinh cũng to bằng cỡ 20×30. Một năm sau, ông cho thư
vào thứ phong bì bình thường vẫn bán ở quầy bưu điện, giá năm đồng một chục
cái.
Tháng bảy năm ấy, tức là ba tháng sau
ngày cha tôi về nghỉ, chú họ tôi, ông Bổng, cưới vợ cho con.
IV
Ông Bổng với cha tôi là anh em cùng cha
khác mẹ. Thằng Tuân con trai ông làm nghề đánh xe bò. Hai cha con đều ghê gớm,
to như hộ pháp, ăn nói văng mạng. Thằng Tuân lấy vợ lần này là lần thứ hai. Vợ
trước bị đánh đau quá, bỏ đi. Ra tòa, nó khai là vợ theo trai, tòa phải chịu.
Cô vợ lần này tên là Kim Chi, làm nghề nuôi dạy trẻ, con nhà có học hẳn hoi, xí
xớn thế nào nghe nói có thai với nó. Kim Chi là cô gái đẹp, làm vợ thằng Tuân
đúng là “hoa nhài cắm bãi cứt trâ u “. Thâm tâm chúng tôi không ưa cha con ông
Bổng, khốn nỗi “một giọt máu đào hơn ao nước lã”, giỗ tết vẫn phải đi lại,
nhưng mà ngày thường cũng nhạt. Ông Bổng hay nói: “Quân trí thức khốn nạn! Rẻ
dân lao động! Nể bố nó, không tôi cạch cửa!” Nói thế thôi, ông Bổng vẫn sang
vay tiền. Vợ tôi khe khắt, bao giờ cũng bắt ông phải ký cược. Ông Bổng rất ức,
ông nói: “Mình là chú nó, trót vay nợ nó mà nó cư xử hệt như địa chủ”. Nhiều
món nợ ông cứ lờ đi không trả. Cưới vợ cho con, ông Bổng nói với cha tôi: “Anh
phải đứng ra chủ hôn, bố cháu Kim Chi vụ phó, anh là tướng, thế là “môn đăng hộ
đôí “. Sau này các cháu nhờ phúc của ông, như tôi là thằng phu xe, báu gì. ”
Cha tôi bằng lòng.
Đám cưới ngoại ô lố lăng và khá dung tục.
Ba ô tô. Thuốc lá đầu lọc nhưng gần cuối tiệc hết sạch, phải thay bằng thuốc lá
cuốn. Năm mươi mâm cỗ nhưng ế mười hai. Chàng rể mặc comlê đen, cravat đỏ. Tôi
phải cho mượn cái cravat đẹp nhất trong tủ áo. Nói là mượn, chắc gì đòi được.
Phù rể là sáu thanh niên ăn mặc hệt nhau, đều quần bò, râu ria rất hãi. Đầu tiệc
là dàn nhạc sống chơi bài Ave Maria. Một anh cùng hợp tác xã xe bò thằng Tuân
nhảy lên đơn ca một bài khủng khiếp:
Ừ ê cái con gà quay
Ta đi lang thang khắp miền giang hồ
Tìm nơi nào có tiền
Tiền ơi, mau vào túi ta
Ừ.. e… cái con gà rù…
Sau đó đến lượt cha tôi. Ông luống cuống,
khổ sở. Bài văn chuẩn bị công phu hóa thừa. Kèn clarinét đệm rất bậy bạ sau dấu
chấm câu. Pháo ầm ĩ. Trẻ con bình luận nhảm nhí. Cha tôi nhảy cóc từng đoạn.
Ông cầm tờ giấy mà run bắn người. Một sự ô hợp láo nháo thản nhiên rất đời, thô
thiển, thậm chí còn ô trọc nữa làm ông kinh hãi, đau đớn. Ông vụ phó thông gia
cũng đâm hoảng hốt, luống cuống, làm đổ cả rượu xuống váy cô dâu. Chẳng nghe thấy
gì. Dàn nhạc sống át đi bằng nhừng ca khúc vui vẻ quen thuộc của các ban nhạc
Beatles và Abba. Sau đó, rắc rối đầu tiên đến với cha tôi là việc Kim Chi sinh
cháu chỉ sau hôm cưới chục ngày. Gia đình ông Bổng bê bối. Ông say rượu, tống cổ
cô con dâu ra cửa. Thằng Tuân cầm dao chém bố, may trượt.
Vô phương, cha tôi phải đón cháu dâu về
nhà. Gia đình tôi thêm hai khẩu. Vợ tôi không nói năng gì Cô Lài thêm một trách
nhiệm. Được cái cô Lài vô tâm, tính lại yêu trẻ.
V
Một
tối, tôi đang đọc Sputnhich, cha tôi lặng lẽ đi vào. Ông bảo: “Cha muốn nói
chuyện với con”. Tôi pha cà phê, cha tôi không uống. Ông hỏi: “Con có để ý công
việc của Thủy không con? Cha cứ rờn rợn”.
Vợ tôi làm việc ở bệnh viện sản, công việc
là nạo phá thai. Hàng ngày các rau thai nhi bỏ đi, Thủy cho vào phích đá đem về.
Ông Cơ nấu lên cho chó, cho lợn. Thực ra điều này tôi biết nhưng cũng bỏ qua,
chẳng quan trọng gì. Cha tôi dắt tôi xuống bếp, chỉ vào nồi cám, trong đó có
các mẩu thai nhi bé xíu. Tôi lặng đi. Cha tôi khóc. Ông cầm phích đá ném vào
đàn chó béc giê: “Khốn nạn! Tao không cần sự giàu có này”. Đàn chó sủa vang.
Ông bỏ lên nhà. Vợ tôi di vào nói với ông Cơ: “Sao không cho vào máy xát? Sao để
ông biết?!’ ông Cơ bảo: “Cháu quên, cháu xin lỗi mợ”.
Tháng mười hai, vợ tôi gọi người bán sạch
đàn chó béc giê. Vợ tôi bảo: “Anh thôi hút thuốc Galăng đi. Năm nay nhà mình hụt
thu hai mươi bảy nghìn, chi lạm mười tám nghìn, cộng là bốn mươi lăm nghìn”.
Kim Chi hết thời gian nghỉ, đi làm. Nó bảo: “Cám ơn anh chị, em đưa con về nhà
đây”. Tôi hỏi: “Về đâu?” Thằng Tuân đã bị bắt giam vì tội côn đồ. Kim Chi đưa
con về nhà của bố mẹ đẻ. Cha tôi đưa về tận nơi bằng xe tắcxi thuê riêng. Cha
tôi ở chơi với ông vụ phó bố của Kim Chi một ngày. Ông này vừa đi công tác ở ấn
Độ về, ông biếu cha tôi một mảnh lụa hoa và nửa lạng cao tổng hợp. Cha tôi cho
cô Lài mảnh lụa hoa, cho ông Cơ nửa lạng cao.
Trước tết Nguyên đán, ông Cơ nói với hai
vợ chồng tôi: “Cháu xin cậu mợ một việc”. Vợ tôi hỏi: “Việc gì?” ông Cơ nói
vòng vèo, chẳng đâu vào đâu. Đại để ông muốn về thăm quê. ở với chúng tôi sáu
năm, cũng có dành dụm, ông Cơ muốn về bốc mộ bà vợ. Để lâu ngày chắc ván đã sụt.
“Nghĩa tử là nghĩa tận”. ở thành phố, cũng muốn về thăm họ hàng làng xóm cho nó
mát mặt. Bây giờ đã vậy, sau này “cáo chết ba năm quay đầu về núi”. Vợ tôi cắt
lời: “Thế bao giờ đi?” ông Cơ gãi đầu: “Đi mười ngày, về Hà Nội trước hăm ba tết”.
Vợ tôi tính: “Được. Anh Thuần này (Thuần là tên tôi), anh có nghỉ phép được
không?” Tôi bảo: “Được”. Ông Cơ bảo: “Chúng cháu muốn mời ông về quê chơi. Như
đi du lịch”. Vợ tôi bảo: “Tôi không thích. Thế ông bảo sao?” ông Cơ ‘ bảo: “Ông
đồng ý rồi. Không có ông, cháu cũng chẳng nhớ đến việc cải mộ nhà cháu”. Vợ tôi
hỏi: “Thế hai cha con có bao nhiêu tiền?” ông Cơ bảo: “C’háu có ba nghìn, ông
cho hai nghìn là năm”. Vợ tôi bảo: “Được, đừng lấy hai nghìn của ông, tôi bù
cho hai nghìn ấy, lại cho thêm năm nghìn. Thế là hai cha con có chục nghìn. Đi
được”.
Trước hôm đi, vợ tôi làm cơm. Cả nhà ngồi
ăn, có cả ông Cơ, cô Lài. Cô Lài vui lắm, mặc bộ quần áo mới may bằng vải cha
tôi cho hôm về. Cái Mi và Cái Vi trêu: “Chị Lài xinh nhất”. Cô Lài cười thỏn thẻn:
“Chả phải. Mợ mới xinh nhất”. Vợ tôi bảo: “Em đi chú ý đỡ ông những khi tàu
xe”. Cha tôi bảo: “Hay thôi không đi?” ông Cơ giãy nảy: “Chết, cháu đã điện rồi:
Mang tiếng chết”. Cha tôi thở dài: “Tôi có tiếng gì mà mang”
VII
Cha tôi đi Thanh Hóa cùng ông Cơ và cô
Lài vào sáng chủ nhật. Tối thứ hai, tôi đang xem tivi thì nghe tiếng “huỵch”, vội
chạy ra ngoài thấy mẹ tôi ngã gục góc vườn. Mẹ tôi lẫn bốn năm nay, cho ăn biết
ăn, cho uống biết uống, phải giục đi ngoài. Mọi hôm có cô Lài săn sóc không
sao. Hôm nay, tôi sơ ý, cho ăn mà không giục đi ngoài. Tôi đỡ mẹ tôi vào, bà cụ
cứ gục mặt xuống. Không thấy có vết đau. Nửa đêm tôi dậy, thấy mẹ tôi lạnh
toát, mắt dại đi. Tôi sợ, gọi vợ tôi. Thủy bảo: “Mẹ già rồi”. Hôm sau mẹ tôi
không ăn, hôm sau nữa, cũng không ăn, không chủ động đi ngoài. Tôi giặt giũ,
thay chiếu. Có ngày mười hai lần. Tôi biết Thủy và hai con tôi ưa sạch sẽ nên
tôi thay giặt luôn, không giũ ở nhà mà mang ra tận kênh đào. Thuốc đổ vào cứ trớ
ra.
Hôm thứ bẩy, mẹ tôi bỗng ngồi dậy được.
Đi lững thững một mình ra vườn. ăn được cơm. Tôi bảo: ” Mừng rồi”. Vợ tôi không
nói năng gì, chiều hôm ấy thấy mang về chục mét vải trắng, lại gọi cả thợ mộc.
Tôi hỏi: “Chuẩn bị à?” Vợ tôi bảo: “Không”. Hai hôm sau, mẹ tôi nằm liệt, lại bỏ
ăn, lại đi ngoài như cũ. Người dốc nhanh, thải ra thứ nước nâu sền sệt rất khắm.
Tôi đổ sâm. Vợ tôi bảo: “Đừng đổ sâm, khổ cho mẹ”. Tôi òa khóc. Rất lâu tôi mới
òa khóc như thế. Vợ tôi nín lặng, rồi lại bảo: “Tùy anh”. Ông Bổng sang thăm.
Ông nói: “Bà ấy cứ xoay ngang, xoay dọc trên giường như thế này là gay go lắm đấy!”
Lại hỏi: “Chị ơi, chị có nhận ra em không?”. Mẹ tôi bảo: ” Có”. Lại hỏi: “Thế
em là ai?” Mẹ tôi bảo: “Là người”. Ông Bổng khóc òa lên: “Thế là chị thương em
nhất. Cả làng cả họ gọi em là đồ chó. Vợ em gọi em là đồ đểu. Thằng Tuân gọi em
là đồ khốn nạn. Chỉ có chị gọi em là người”. Lần đầu tiên, cái ông chú đánh xe
bò, lỗ mãng, táo tợn, làm đủ mọi điều phi nhân bất nghĩa hóa thành đứa trẻ ngay
trước mắt tôi.
VIII
Cha tôi về đến nhà thì sáu tiếng sau mẹ
tôi mất. Ông Cơ và cô Lài nói: “Tại chúng cháu. Chúng cháu ở nhà thì bà không mất”.
Vợ tôi bảo: “Nói nhảm”. Cô Lài khóc: “Bà ơi, bà đánh lừa con bà đi! Sao bà
không cho con đi hầu bà?” ông Bổng cười: “Mày muốn đi hầu bà thì đi, tao cho
đóng ván”. Khi liệm mẹ tôi, cha tôi khóc. Ông hỏi ông Bổng: “Sao người bà ấy
rút nhanh thế? Người già ai cũng chết khổ như thế này à?” ông Bổng bảo: “Anh lẩm
cẩm. Hôm nào nước mình cũng có hàng nghìn người chết khổ nhục vật vã đau đớn. Mỗi
lính tráng các anh, “đòm” phát là sướng”.
Tôi cho bắc rạp, bảo thợ mộc đóng quan
tài. Ông Cơ cứ loay hoay bên đống ván vợ tôi cho xẻ hôm trước. Ông thợ mộc
quát: “Sợ chúng ông ăn cắp gỗ à?” ông Bổng hỏi: “Ván mấy phân?” Tôi bảo: “Bốn
phân”. Ông Bổng bảo: “Mất mẹ bộ xa lông Ai lại đi đóng quan tài bằng gỗ dổi bao
giờ? Bao giờ bốc mộ, cho chú bộ ván”. Cha tôi ngồi âm thầm, trông rất đau đớn.
Ông Bổng bảo: “Chị Thủy luộc cho tôi con gà, nấu hộ nồi xôi”. Vợ tôi hỏi: “Mấy
cân gạo hả chú?” Ông Bổng bảo: “Mẹ mày, sao hôm nay cứ ngọt xớt thế? Ba cân”! Vợ
tôi bảo tôi: “Họ hàng nhà anh kinh bỏ mẹ”.
Ông Bổng hỏi tôi: “Nhà này ai chủ trì
kinh tê?” Tôi bảo: “Vợ cháu”. Ông Bổng bảo: “Đấy là ngày thường. Tao hỏi đám ma
này thì ai chủ trì kinh tế”" Tôi bảo: “Vợ cháu”. Ông Bổng bảo: “Không được
con ơi, khác máu tanh lòng. Tao bảo bố mày nhé”. Tôi bảo: “Ông dể con”. Ông Bổng
bảo: “Đưa tao bốn nghìn, mày định làm bao nhiêu mâm?” Tôi bảo: “Mười mâm”. Ông
Bổng bảo: “Không đủ cho đô tùy rửa ruột. Mày bàn với vợ mày đi. Bốn mươi mâm”.
Tôi đưa cho ông bốn nghìn rồi vào nhà. Vợ tôi bảo: “Em nghe hết rồi, em tính ba
chục mâm, tám trăm đồng một mâm, ba tám hai tư. Hai tư nghìn, phụ phí sáu
nghìn. Việc mua bán em lo. Cỗ giao cho cô Lài. Đừng nghe ông Bổng, lão ấy đểu lắm”.
Tôi bảo: “ông Bổng cầm bốn nghìn rồi”. Vợ tôi bảo: “Buồn anh lắm”. Tôi bảo:
“Anh đòi lại nhé”. Vợ tôi bảo: “Thôi, coi như trả công. Lão ấy tốt nhưng
nghèo”. Phường bát âm đến bốn người. Cha tôi ra tiếp. Nhập quan lúc bốn giờ chiều.
Ông Bổng cạy miệng mẹ tôi cho vào chín đồng vừa tiền chinh Khải Định, vừa tiền
một hào nhôm. Ông bảo: “Để đi đò”. Lại cho vào cỗ bài tổ tôm, có lẫn cả mấy
quân tam cúc. Ông bảo: “Không sao, ngày xưa bà ấy vẫn chơi tam cúc”. Đêm ấy,
tôi thức canh quan tài mẹ tôi, ngẫm nghĩ lan man đủ điều. Cái chết sẽ đến với mỗi
chúng ta, chẳng trừ ai cả. Ngoài sân, ông Bổng với mấy bác đô tùy ngồi đánh tam
cúc àn tiền. Khi nào kết tốt đen, ông Bổng lại chạy vào vái quan tài mẹ tôi: “Lạy
chị, chị phù hộ cho em để em vét thật nhẵn túi chúng nó”. Cái Mi, cái Vi cũng
thức với tôi. Cái Mi hỏi: “Sao chết đi qua đò cũng phẫi trả tiền? Sao lại cho
tiền vào miệng bà?” Cái Vi bảo: “Đấy có phải ngậm miệng ăn tiền không bố”"
Tôi khóc: “Các con không hiểu đâu. Bố cũng không hiểu, đấy là mê tín”. Cái Vi bảo:
“Con hiểu đấy. Đời người cần không biết bao nhiêu là tiền. Chết cũng cần”. Tôi
thấy cô đơn quá. Các con tôi cũng cô đơn. Cả đám đánh bạc, cả cha tôi nữa.
IX
Từ nhà tôi ra nghĩa dịa đi tắt chỉ năm
trăm mét nhưng đi đường chính qua cổng làng phải hai cây số. Đường bé, không đẩy
xe đòn được mà phải khiêng vai. Đô tùy thay nhau đến ba chục người, có nhiều
người vợ chồng tôi không biết tên gì. Họ khênh quan tài hồn nhiên như việc bình
thường vẫn làm, như khênh cột nhà. Vừa đi vừa nhai trầu, hút thuốc, tán chuyện.
Khi nghỉ, đứng ngồi ngổn ngang ngay bên quan tài. Có người nằm lăn ra nói: “Mát
thật, không bận cứ ngủ ở đây đến tối”. Ông Bổng bảo: “Các bố ơi, đi đi còn về
nhắm”. Thế là đi. Tôi chống gậy giật lùi trước quan tài theo tục lệ , “cha đưa
mẹ đón”. Ông Bổng bảo: “Bao giờ tôi chết, đô tùy của tôi toàn dân cờ bạc, cỗ
không thịt lợn mà thịt chó”. Cha tôi bảo: “Chú ơi, lúc này mà chú đùa à?” Ông Bổng
nín bặt, lại khóc: “Chị ơi, chị đánh lừa em chị đi… Chị bỏ em chị đi… “. Tôi
nghĩ:
“Sao lại đánh lừa? Chẳng lẽ người chết đều
đã đánh lửa người sống cả sao? Bãi tha ma này toàn quân lừa lọc?”
Chôn cất xong, mọi người về nhà. Bày ra
một lúc hai mươi tám mâm. Nhìn mâm cỗ, tôi thật kính trọng cô Lài. Mâm nào cũng
gọi: “Lài đâu?” Cô Lài miệng dạ tíu tít, chạy ra bê rượu, bê thịt. Đến tối, cô
Lài tắm giặt, mặc quần áo mới ra hương án khóc: “Bà ơi, cháu xin lỗi bà, cháu
không đưa bà ra đồng… Hôm trước bà thèm canh cua, cháu ngại làm, bà chẳng được
ăn… Bây giờ đi chợ, cháu biết mua quà cho ai?… ” Tôi thấy đắng ngắt. Tôi nhớ đã
chục năm nay tôi chưa lần nào mua được cho mẹ chiếc bánh hay là gói kẹo. Cô Lài
lại khóc: “Cháu ở nhà thì bà có chết không bà?” Vợ tôi bảo: “Đừng khóc”. Tôi
cáu: “Cứ để cho cô ấy khóc, đám ma không có tiếng khóc buồn lắm. Nhà mình có ai
biết khóc bà cụ thế đâu?” Vợ tôi bảo: “Ba mươi hai mâm. Anh phục em tính sát
không?” Tôi bảo: ” Sát”. Ông Bổng bảo: “Tôi đi xem giờ. Bà cụ được một cái nhập
mộ, hai cái trùng tang, một cái thiên di. Có yểm bùa không?” Cha tôi bảo: “Bùa
con khỉ. Trong đời mình, tôi chôn ba nghìn người chẳng có người nào thế này”.
Ông Bổng bảo: “Thế là sướng, “đòm” phát là xong”. Ông giơ một ngón tay trỏ làm
hiệu bóp cò.
X
Tết năm đó, nhà tôi không mua hoa đào,
không gói bánh chưng. Chiều mồng hai, đơn vị cũ của cha tôi cho người về viếng
mẹ tôi. Biếu năm trăm đồng. Ông Chưởng, phó của cha tôi bây giờ lên tướng, ra mộ
thắp hương. Anh Thanh đại úy cần vụ đi theo rút súng bắn ba phát lên trời. Sau
này, trẻ con trong làng kháo bộ đội bắn hai mốt phát đại bác viếng bà Thuấn.
Ông Chưởng hỏi cha tôi: “Anh muốn về thăm đơn vị dối già không? Tháng năm tập
trận. Đơn vị cho xe về đón”. Cha tôi bảo: “Được”. Ông Chưởng đi thăm cơ ngơi
nhà tôi, có ông Cơ hướng dẫn. Ông Chưởng bảo cha tôi: “Cơ ngơi của anh ác thật.
Vườn cây, ao cá, chuồng lợn, chuồng gà, biệt thự. Thế là vững tâm”. Cha tôi bảo:
“Con tôi làm đấy”. Tôi bảo: “Đấy là vợ cháu”. Vợ tôi bảo: “Cô Lài chứ! ” Cô Lài
cười thỏn thẻn, dạo này dầu cứ gật gật liên hồi như bị động kinh: “Chả phải”.
Cha tôi đùa: “Thế thì do mô hình V.A.C “. Sáng mồng ba, Kim Chi đi xích lô bế
con về thăm. Vợ tôi mừng tuổi một nghìn. Cha tôi hỏi: “Thằng Tuân có thư từ gì
không?” Kim Chi bảo: “Không”. Cha tôi bảo: “Lỗi ở bác đấy. Tao không biết mày
có chửa”. Vợ tôi bảo: “Chuyện ấy là thường. Bây giờ làm gì còn có trinh nữ. Con
làm ở bệnh viện sản, con biết”. Kim Chi ngượng. Tôi bảo: “Đừng nói thế, nhưng
mà làm trinh nữ thì mệt thật”. Kim Chi khóc: “Anh ơi, đàn bà chúng em nhục lắm.
Đẻ con gái ra em cứ nát ruột nát gan”. Vợ tôi bảo: “Tôi còn hai con gái cơ”.
Tôi bảo: “Thế các người tưởng làm đàn ông thì không nhục à?” Cha tôi bảo: “Đàn
ông thằng nào có tâm thì nhục.. Tâm càng lớn, càng nhục”. Vợ tôi bảo: “Nhà mình
nói năng như điên khùng cả. Thôi đi ăn. Hôm nay có cô Kim Chi, tôi đãi mỗi người
một con gà hầm tâm sen. Tâm đấy. Ăn là trên hết”.
XI
Gần nhà tôi ở có cậu Khổng, trẻ con gọi
là Khổng Tử. Khổng làm ở xí nghiệp nước mắm nhưng lại thích thơ, làm thơ gửi
báo Văn nghệ. Khổng hay sang chơi. Khổng bảo: “Thơ siêu nhất”. Cậu đọc cho tôi
nghe Loócca, Uýtxman v. v… Tôi không thích Khổng, ngờ ngợ cậu ta sang chơi vì một
cái gì phiêu lưu còn hơn cả thơ ca nữa. Một bận, thấy trong giường của vợ tôi
có một tập thơ chép tay. Vợ tôi bảo: “Thơ của cậu Khổng, anh có đọc không?” Tôi
lắc đầu. Vợ tôi bảo: “Anh già rồi”. Bất giác tôi thoáng rùng mình. Một hôm bận
trực cơ quan nên tôi về muộn. Cha tôi đón cổng, ông bảo: “Thằng Khổng sang chơi
từ chập tối. Nó với vợ mày cứ rúc rích với nhau, bây giờ chưa về, chướng quá”.
Tôi bảo: “Cha đi ngủ đi, để ý làm gì?” Cha tôi lắc đầu, bỏ đi lên gác. Tôi dắt
xe máy ra đường, phóng lang thang khắp phố cho kỳ hết xăng. Tôi dắt xe đến ngồi
ở một góc vườn hoa như một tên du thủ du thực. Có một cô mặt đánh phấn đi ngang
qua hỏi: “Ông anh ơi, có đi chơi không?” Tôi lắc đầu. Khổng có ý tránh mặt tôi.
Ông Cơ ghét lắm, một hôm bảo tôi: “Cháu đánh nó nhé?” Suýt tôi gật đầu. Lại
nghĩ: “Thôi”. Tôi vào thư viện mượn thử ít sách. Đọc Loócca, Uýtxman… tôi cứ mơ
hồ thấy những nghệ sĩ trác tuyệt là những con người cô đơn khủng khiếp. Bỗng thấy
thằng Khổng có lý. Chỉ tức nó đểu. Sao nó không đưa thơ nó cho người khác xem
mà lại đưa cho vợ tôi? Cha tôi bảo: “Anh nhu nhược. Duyên do là anh đếch sống
được một mình”. Tôi bảo: “Không phải, cuộc đời nhiều trò dùa lắm”. Cha tôi bảo:
“Anh cho là trò đùa à?” Tôi bảo: “Không phải trò đùa, nhưng cũng không phải
nghiêm trọng”. Cha tôi bảo: “Sao tôi cứ như lạc loài?” Cơ quan định cử tôi đi
công tác phía Nam. Tôi bảo vợ tôi: “Anh đi nhé?” Vợ tôi bảo: “Đừng đi. Mai anh
sửa cửa nhà tắm, cái cửa hỏng rồi. Hôm nọ cái Mi đang tắm, thằng Khổng đi qua định
giở trò đểu làm nó hết hồn. Thằng khốn nạn ấy em cấm cửa rồi”. Vợ tôi òa khóc:
“Em thật có lỗi với anh, với con”. Tôi khó chịu quay đi. Nếu có cái Vi bây giờ
thì nó sẽ hỏi tôi rằng: “Bố ơi, đấy có phải nước mắt cá sấu không?”
XII
Tháng Năm, đơn vị cũ cho xe về đón cha
tôi. Anh Thanh đại úy cầm thư của ông Chưởng về. Cha tôi cầm thư run run. Thư
viết: “… Chúng tôi cần anh, mong anh… nhưng anh đi được thì đi, không ép”. Tôi
nghĩ cha tôi không nên đi nữa nhưng nói ra bất tiện. Cha tôi già sụp hẳn đi từ
khi về hưu. Hôm nay cầm thư, thấy ông nhanh nhẹn và trẻ trung hẳn. Tôi cũng vui
lây. Vợ tôi chuẩn bị đồ đạc cho vào cái sắc du lịch. Cha tôi không nghe, ông bảo:
“Cho vào ba lô”. Cha tôi đi chào làng nước một lượt, ra cả ngoài mộ mẹ tôi, lại
bảo anh Thanh bắn ba phát súng lên trời. Buổi tối cha tôi gọi ông Cơ đến cho
hai nghìn, bảo khắc một cái bia dá gửi về Thanh Hóa đánh dấu mộ vợ. Cha tôi lại
gọi cô Lài dến bảo: “Cháu lấy chồng đi”. Cô Lài òa khóc: “Cháu xấu xí lắm, chẳng
ai lấy. Lại cả tin nữa”. Cha tôi nghẹn ngào: “Con ơi, con không hiểu rằng cả
tin chính là sức mạnh để sống hả con?” Tôi cũng không ngờ những điều như thế lại
là diềm báo chuyến này cha tôi ra đi không về. Trước khi lên xe, cha tôi lấy
trong ba lô ra quyển vở học sinh. Ông đưa cho tôi. Ông bảo: “Trong này cha có
ghi chép ít điều, con đọc thử xem”. Cái Mi, cái Vi chào ông. Cái Mi hỏi: “ông
đi ra trận hả ông?” Cha tôi bảo: “ừ”. Cái Vi hỏi:
“Đường ra trận mùa này đẹp lắm có phải
không ông?”
Cha tôi chửi: “Mẹ mày! Láo!”
XIII
Cha tôi đi được vài ngày thì ở nhà xảy
ra chuyện cười nôn ruột. Số là ông Cơ cùng với ông Bổng vớt bùn dưới ao (vợ tôi
trả ông Bổng hai trăm đồng một ngày công, cơm nuôi), bỗng thấy một cái đít chum
nổi lên. Hai ông hì hục đào, lại thấy một đít chum nữa, ông Bổng đoán chắc các
cụ ngày xưa chôn của. Hai ông báo với vợ tôi. Thủy đến xem, cũng lội xuống đào.
Rồi cả cô Lài, cả cái Mi, cái Vi. Cả nhà bê bết bùn đất. Vợ tôi bắt phải ngăn
ao, lại đi thuê máy bơm Côle về tát nước. Không khí thật nghiêm trang. Ông Bổng
thích lắm: “Công tao thấy trước, cứ phải chia cho tao rnột chum”. Hì hục một
ngày đào được hai cái chum sứt trong chẳng có gì. Ông Bổng bảo: ” Chắc còn nữa”.
Lại đào. Được thêm một cái chum nữa, cũng vỡ. Cả nhà mệt lả, bụng đói cồn cào.
Vợ tôi sai mua bánh mì về ăn lấy sức đào tiếp. Đào gần chục mét thì vớ được cái
lọ sành. Cả nhà mừng rỡ, ai cũng đoán vàng. Mở ra trong thấy toàn một chuỗi “Bảo
Đại thông báo” bằng đồng đã han rỉ cả. Lại thấy một cái mề đay mủn nát. Ông Bổng
bảo: “Thôi chết, tao nhớ ra rồi”.
Ngày xưa tạo với trùm Nhân ăn trộm ở nhà
Hàn Tín, bị đuổi, trùm Nhân vứt cái lọ này xuống ao”. Cả nhà được một mẻ cười
nôn ruột. Trùm Nhân là tên ăn trộm khét tiếng ở vùng ngoại ô. Hàn Tín trước kia
là lính thuộc địa cho Tây, tham gia phong trào “Rồng Nam phun bạc, đánh đuổi Đức
tặc”. Cả hai đã chết mục xác từ thuở nảo thuở nào. Ông Bổng bảo: “Không sao,
bây giờ cả làng này chết tao cũng đủ tiền đi đò nhét vào miệng họ”. Sáng hôm
sau, ngủ dậy thì tôi nghe thấy có tiếng gọi cổng. Tôi ra thấy Khổng đứng ngoài.
Tôi nghĩ: “Mẹ khỉ, cái thằng đểu này là điềm gở nhất của số phận mình”. Khổng bảo:
“Anh Thuần ơi, anh có điện. Ông cụ mất rồi!”
XIV
Điện của ông Chưởng: “Thiếu tướng Nguyễn
Thuấn, hy sinh khi làm nhiệm vụ hồi… giờ… ngày mai táng tại nghĩa trang liệt sĩ
hồi… giờ… ngày” Tôi lặng người. Vợ tôi xếp đặt mọi việc rất nhanh. Tôi ra thuê
xe, về nhà đã thấy gọn đâu vào đấy Vợ tôi bảo: “Khóa cửa nhà trên. Ông Cơ ở lại”.
Xe đi Cao Bằng theo đường số Một. Đến nơi thì lễ an táng cha tôi cử hành đã được
hai tiếng đồng hồ. Ông Chưởng bảo: “Chúng tôi có lỗi đối với gia đình”. Tôi bảo:
“Không phải thế. Đời người có mệnh”. Ông Chưởng bảo: “Cha anh là người đáng trọng”.
Tôi hỏi: “Theo nghi lễ quân đội hả chú”. Ông Chưởng bảo: “Cụ ra trận địa, đòi
lên chốt”. Tôi bảo: ” Cháu hiểu rồi, chú đừng kể nữa”. Tôi khóc, chưa bao giờ
tôi khóc như thế. Bây giờ tôi mới hiểu khóc như cha chết là khóc thế nào. Hình
như đấy là cái khóc lớn nhất đời một con người.
Mộ của cha tôi đặt trong nghĩa trang liệt
sĩ. Vợ tôi mang theo máy ảnh bảo chụp mấy kiểu. Hôm sau tôi xin về luôn, ông
Chưởng giữ lại nhưng tôi không nghe. Đường về vợ tôi bảo xe đi chậm. Ông Bổng lần
đầu mới được đi xa, thích lắm. Ông bảo: “Nước mình thật đẹp như tranh. Bây giờ
tôi mới hiểu vì sao phải yêu đất nước. Chứ ở quê ta, dù ngay Hà Nội có văn minh
thật, tôi chẳng thấy yêu gì cả”. Vợ tôi bảo: “Tại chú quen đấy. ở nơi khác cũng
thế, họ lại thấy yêu Hà Nội”. Ông Bổng bảo: “Thế là nơi này yêu nơi kia, người
này yêu người kia. Tất cả đều đất nước mình, nhân dân mình cả. Vậy thì đất nước
muôn năm, nhân dân muôn năm. Hoan hô đèn cù! ”
XV
Có lẽ câu chuyện của tôi kết thúc ở đây.
Sau đó nếp sống của gia đình tôi trở lại như là trước ngày cha tôi nghỉ hưu. Vợ
tôi tiếp tục công việc bình thường. Tôi đã hoàn thành công trình nghiên cứu điện
phân. Ông Cơ trở nên ít nói, một phần vì bệnh cô Lài nặng hơn. Lúc rỗi, tôi giở
đọc những điều cha tôi ghi chép. Tôi hiểu cha tôi hơn. Trên đây là những sự việc
lộn xộn của hơn một năm cha tôi nghỉ hưu mà tôi chép lại. Tôi coi đấy như nén
hương thắp nhớ người. Nếu có ai đã có lòng để mắt đọc điều tôi viết, xin lượng
thứ cho tôi.
Tôi xin cảm tạ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét