Thứ Bảy, 13 tháng 7, 2013

THỦ PHÁP GIỄU NHẠI VÀ BIỂU HIỆN CỦA NÓ TRONG THƠ ĐƯƠNG ĐẠI

            Từ nửa sau thế kỉ XX, chủ nghĩa hậu hiện đại trở thành một trào lưu văn hoá mang tính toàn cầu. Văn học nói chung, thơ hậu hiện đại thế giới nói riêng cũng đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Tất nhiên, ở Việt Nam cũng không ngoại lệ. Tuy không mạnh mẽ, sôi nổi như trên thi đàn nhân loại nhưng sự xuất hiện và phát triển của dòng thơ hậu hiện đại quốc nội một mặt thể hiện quy luật hết sức bình thường trong giao lưu văn hóa, chứng tỏ tinh thần hội nhập mạnh mẽ và thuận chiều của nước ta đối với văn chương thế giới, mặt khác góp phần làm phong phú thêm diện mạo thi pháp và tư duy của văn học dân tộc. Song, để đáp ứng đòi hỏi phát triển của bản thân văn chương, thỏa mãn nhu cầu khai quật nhiều cái mới nhằm mở rộng chân trời sáng tạo, hướng đến tạo ra nhiều “cơn gió lạ” trong thơ đương đại, các tác giả đã không ngừng cách tân “cán bút” của mình. Liên tiếp các thủ pháp nghệ thuật mới xuất hiện song song với việc tận dụng tối đa các thủ pháp đã có sẵn như: giễu nhại, liên văn bản, vắt  dòng, siêu hư cấu sử thi, thơ phân thân, thơ động tác, thơ phụ âm, thơ thị giác, thơ cụ thể… Chúng không phải là sự trú chân mà đã trở thành hình thức tiêu biểu của cái nhìn, trở thành một “nguyên tắc” tổ chức văn bản. Mỗi thủ pháp dưới sự khéo léo tìm tòi, sáng tạo và khai thác triệt để của thi nhân đều định vị được vai trò nhất định của mình. Trong đó, thủ pháp giễu nhại và sự biểu hiện của nó trong thơ đương đại chính là một trường hợp như thế.

1. Thủ pháp giễu nhại trong thơ
            Trong đời sống văn hóa, xưa nay giễu nhại vốn vẫn được coi là một thủ pháp nghệ thuật, không chờ đến khi hậu hiện đại xuất hiện thì thủ pháp này mới ra đời. Đó là thủ pháp bắt chước một cách quá lố một câu thơ, một bài thơ, một đoạn phim, một trích đoạn kịch, một ca khúc, một bức tranh,… (tất nhiên đa phần những tác phẩm bị / được nhại là những tác phẩm nổi tiếng). Đây vốn là thủ pháp đặc biệt sử dụng chất liệu của quá khứ, là “mỏ vàng” của những người thích sáng tạo. Các nghệ sĩ lớn, đặc biệt là các nghệ sĩ hài, vô cùng thích thú khi sử dụng hình thức này nhằm mang đến sự hào hứng, sôi nổi và ngầm gửi gắm nhiều thông điệp khiến người đọc, người xem phải trăn trở và nghĩ suy. Rõ ràng, giễu nhại là một hình thức rất quen thuộc trong đời sống.
            Trong văn chương, giễu nhại cũng là một kỹ thuật dùng sự bắt chước để chế giễu một tác phẩm hoặc một trào lưu, một phong cách nào đó. Nó tồn tại với tư cách là một thủ pháp đã xuất hiện từ những tác phẩm đầu tiên của nền văn học cổ đại. Tiếp đến những thời kỳ văn học sau đó, giễu nhại lại luôn được sử dụng với những sắc thái riêng biệt. Điều đó cho thấy đây không phải là một sản phẩm “mới toe” do các nhà hậu hiện đại sản sinh, mà họ chỉ vận dụng những gì sẵn có để biến tấu theo dụng ý của riêng mình.
Theo hầu hết giới nghiên cứu hiện nay, dù nhìn từ góc cạnh nào thì giễu nhại cũng có hai đặc điểm chính: nhạigiễu, tức bắt chướcchâm biếm. Nhại có nhiều phạm vi khác nhau: văn bản hay khung hình thức của thể loại; trong văn bản lại có nhiều cấp độ khác nhau: từ, câu, đoạn, hay toàn văn. Châm biếm cũng có nhiều đối tượng khác nhau. Trong văn học dân gian, sự châm biếm trong hình thức nhại thường mang tính chính trị. Ví dụ:  Các bài thơ được nhại đăng trong các mục thơ trào phúng trên các báo cũng đều có ý nghĩa phê phán.
Trong phạm vi thuần tuý văn học, nhại có thể nhằm giễu một tác giả hay một tác phẩm, một thể loại, một phong cách, một phương pháp sáng tác, một quan điểm thẩm mỹ, hay, rộng và sâu hơn, những điển phạm và những quy phạm làm nền tảng cho cái được xem là văn chương nói chung. Ở điểm cuối cùng này, giễu nhại mang tính bản thể luận: nó đặt nghi vấn không phải với một hiện tượng mà chủ yếu với bản chất của hiện tượng.
            Như vậy, giễu nhại là một khái niệm rất rộng. Nó hiện diện trong tác phẩm nhưng rất khó nắm bắt. Đó là tất cả những yếu tố đã thẩm thấu trong tác phẩm. Giọng điệu giễu nhại chỉ có thể được lĩnh hội thông qua quá trình đọc, cảm nhận từng câu chữ, từng khoảng trống của tác phẩm. Với từng loại đối tượng phong phú, đa dạng khác nhau, nhà thơ sẽ tạo nên nhiều kiểu nhại khác nhau. Do vậy để xác định yếu tố nhại, chúng ta cần xác định đối tượng nhại và các nguyên tắc hình thức để thực hiện giễu nhại.
Như vậy, bằng hình thức sáng tạo – giễu nhại, người làm thơ nói chung và nhà thơ đương đại nói riêng, đã dùng nó làm vũ khí vô cùng lợi hại để có thể đương đầu không chỉ với tình trạng tha hóa của ngôn ngữ, mà còn với mọi dạng quyền năng. Không phải là độc quyền của một trào lưu hay giai đoạn văn học nào, giễu nhại xuất hiện trong mỗi giai đoạn bước ngoặt như một dấu hiệu tích cực đánh dấu thái độ tự ý thức, tự nhìn lại, và dấu hiệu của sự “giải thiêng” những gì đang được sùng tín, đang được xem là thời thượng. Như đã nói trên, giễu nhại thực hiện trên nhiều cấp độ, với nhiều đối tượng cụ thể khác nhau nên đã mang đến cho thi phẩm những giá trị nhất định mà chúng ta khó có thể phủ nhận.
            Tuy nhiên, thơ đương đại cũng có những vấn đề ta cần nhìn nhận lại sao cho hợp lí. Đó là dùng giễu nhại kết hợp với việc ném bừa bãi ngôn từ tục tĩu vào hoặc lấy giễu nhại để ám chỉ, chửi bới các vấn đề xã hội. Chửi, đó là điều chưa và không bao giờ có thể trở thành nguồn cội sinh ra tuyệt tác, dù thế nào thì "tính văn hóa" vẫn là một trong các tiêu chí cơ bản đo lường phẩm chất con người, đo lường phẩm chất các sản phẩm do con người làm ra. Song, theo ý kiến chủ quan của người viết, thơ giễu nhại đương đại còn được mở rộng nhằm chỉ những thi phẩm sử dụng giọng điệu giễu nhại để phản ánh những vấn đề của đời sống theo hướng tích cực. Bởi những lẽ đó, chúng ta cần có được cái nhìn tỉnh táo khi xác định thủ pháp giễu nhại cũng nhưng vén bức màn của thủ pháp đã được sử dụng để tìm đến nhiều nội dung có giá trị.

2. Biểu hiện của thủ pháp giễu nhại trong thơ đương đại
            Thủ pháp giễu nhại đã từng được nhiều tác giả trong văn học Việt Nam vận dụng bằng một ý thức hết sức rõ ràng. Bà chúa thơ Nôm - Hồ Xuân Hương được đánh giá là người sử dụng rất tài tình thủ pháp giễu nhại, trào tếu theo kiểu liên văn bản. Đây là bài thơ “Cây đánh đu” của Hồng Đức:
                        Bốn cột lang nha cắm để chồng,
                        Ả thì đánh cái ả còn ngong.
                        Tế hậu khổ khom khom cật,
                        Vái hoàng thiên ngửa ngửa lòng.
                        Tám bức quần hồng bay phất phới,
                        Hai hàng chân ngọc đứng song song.
                        Chơi xuân hết tấc xuân dường ấy,
                        Nhổ cọc đem về để lỗ không.
Và đây là bài thơ “Đánh đu” của Xuân Hương:
                        Bốn cột khen ai khéo khéo trồng,
                        Người thì lên đánh kẻ ngồi trông.
                        Trai du gối hạc khom khom cật,
                        Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng.
                        Bốn mảnh hồng quần bay phất phới,
                        Hai hàng chân ngọc duỗi song song.
                        Chơi xuân đã biết xuân chăng tá,
                        Cọc nhổ đi rồi, lỗ bỏ không.
Nếu như bài thơ trong tập Hồng Đức thể hiện một cảm quan cổ xưa, già cả: tìm cái đẹp trong những hình ảnh nghi lễ (tế hậu thổ, vái hoàng thiên). Còn bài thơ của Xuân Hương thì thể hiện một cảm quan mới mẻ, trẻ trung: tìm thấy cái đẹp trong dáng vẻ khỏe mạnh, đa tình của tuổi trẻ (trai du gối hạc, gái uốn lưng ong). Bài thơ trong tập Hồng Đức nghiêm túc, đúng là tả cảnh đánh đu thật, còn thơ Xuân Hương thì tinh quái, đâu phải chỉ mỗi nghĩa đánh đu. Bài thơ của Xuân Hương làm ra chính là để giễu nhại cái cao nhã mà khô khan của thơ Hồng Đức! Điều này quả thật rất phù hợp với phong cách sáng tác của bà. Tương tự, bài “Cái quạt của Hồ Xuân Hương cũng là sự giễu nhại bài “Cái quạtcủa Ban Tiếp Dư, …
Ở truyện ngắn từng góp phần làm nên tên tuổi của Nam Cao – “Chí Phèo”, cũng là một trường hợp thể hiện sâu sắc thủ pháp giễu nhại. Dưới ngòi bút của mình, tác giả đi vào giễu nhại ý thức dân gian, ý thức đại chúng nhằm đánh vào thái độ của người nông dân khi nhìn nhận những người xung quanh, vào thái độ thiếu trách nhiệm về nội dung phát ngôn của mình, chỉ biết cái nhỏ nhặt tầm thường mà không hiểu đại cuộc. Ông đánh vào cả cái nhìn có tính chất xăm soi, chứa đầy định kiến đối với thế giới xung quanh, đánh vào cái nhìn chủ quan của họ. Mặt khác, tác giả cũng đi vào giễu nhại ý thức lãng mạn đương thời. Ý thức lãng mạn luôn cho rằng tình yêu thì phải bay bỗng ngọt ngào, còn ở tác phẩm “Chí Phèo” mối tình Chí Phèo – Thị Nở như một sự lệch quỹ đạo. Họ ồn ào, họ ầm ĩ nhưng vẫn tha thiết yêu đương,…     
          Đến với thơ đương đại, thủ pháp giễu nhại này vẫn được đánh giá cao và phân bố khá đều đặn trong các thi phẩm. Thậm chí, nó còn được coi là một trong những khuynh hướng sáng tác chủ đạo. Người ta có thể dễ dàng thấy được dấu vết giễu nhại trong các sáng tác của Nguyễn Trọng Tạo, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Quang Thiều, Bùi Chát, nhóm Ngựa trời, nhóm Mở miệng...
            Ví như trong thơ của Nguyễn Trọng Tạo, ta nghe một giọng giễu nhại vang lên:
                        Thế giới không còn trăng! Tin nghe rung rợn quá
                        Chú cuội cây đa tan xác giữa thiên hà
                        Không còn Tết Trung thu, không còn đêm phá cỗ
                        Không còn ánh trăng ngà cho thi sĩ làm thơ…
            Trong những câu thơ ấy ta thấy cả tiếng cười và nước mắt, cả tính cách cực đoan và khôi hài của thi sĩ. Hay khi Nguyễn Trọng Tạo nói:
                        Những bông hoa vẫn cứ nở đúng mùa
                        Như thời đã đi qua như thời rồi sẽ đến
Thi nhân đang khéo léo nhại cách nói ngày xưa của Nguyễn Trãi:
                        Kim cổ vô cùng giang mạc mạc
                        Anh hùng hữu hận diệc tiêu tiêu
Quy luật của cuộc đời và vạn vật là vậy, khi con người bừng thức trong một giác ngộ nào đó sẽ bừng dậy một cách sám hối chân thành và đớn đau. Nhà thơ như tuyên bố, chính từ thời điểm này, nhà thơ đã là một con người, một công dân, một tri kỉ hoàn toàn khác. Đây chính là hình thức giễu nhại theo kiểu liên văn bản.
            Nhắc đến dòng thơ giễu nhại, chúng ta không thể bỏ qua cái tên Bùi Chát với tác phẩm tiêu biểu “Mùa hoa đỏ lè”:
                        Dưới màu hoa như lửa cháy khát khao nhậu
                        Anh nắm tay em bước dọc con đường vắng vẻ
                        Chỉ có tiếng ve sôi chẳng cho trưa hè yên tĩnh lặng
                        Chẳng chịu cho lòng ta yên ổn
                        Anh mải mê về một màu mây xa xôi
                        Về cánh buồm bay qua ô cửa nhỏ thó
                        Về cái vẻ thần kì của ngày xưa rồi
                        Em hát một câu thơ cũ sì
                        Cái say mê của thời thiếu nữa tặc
                        Mỗi mùa hoa đỏ về quê
                        Hoa như mưa rơi rơi rụng
                        Cánh mỏng manh tan tác đỏ tươi đẹp
                        Như máu ứa một thời trai trẻ trung
                        Hoa như mưa rơi rơi rớt
                        Như tháng ngày xưa ta dại khờ khạo
                        Ta nhìn vào tận sâu mắt nhau heo
                        Mày thấy lòng đau xót xa
                        Trong câu thơ của em nhỏ
                        Anh không có mắt mẹt
                        Câu thơ hát về một thời yêu đương tha thiết thực
                        Anh đâu buồn mà chỉ tiếc rẻ
                        Em không đi hết những ngày đắm say trưa
                        Hoa cứ rơi ồn ào như tuổi trẻ trai
                        Không cho ai có thể lạnh tanh tưởng
                        Hoa đặt vào lòng chúng ta một vệt đỏ chót
                        Như vết xước của trái tim gan
                        Sau bài hát rồi em lặng im ỉm
                        Cái lặng im rực màu hoa đỏ ối
                        Anh biết mình vô nghĩa đi bên em út
                        Sau bài hát rồi em như thể dục
                        Em của thời hoa đỏ ngày xưa kia
                        Sau bài hát rồi anh cũng thế giới
                        Anh của thời trai trẻ ngày xưa đó.
Chắc hẳn chúng ta ai cũng nhận ra  bài thơ có tên “Thời hoa đỏ lè” trên xuất phát từ bài thơ nổi tiếng “Thời hoa đỏ” của Thanh Tùng đã được Nguyễn Đình Bảng phổ nhạc thành một bài hát quá quen thuộc trong đời sống âm nhạc Việt Nam. Từ tiêu đề cho đến các dòng thơ, Bùi Chát thêm vào một chữ ở sau cùng. Mỗi dòng đều thừa ra, “lạm phát” thêm một chữ. Với kiểu nhại dựa trên sự phong phú và linh hoạt vốn có của tiếng Việt, tác giả thể hiện sắc thái đời thường, thậm chí là thông tục, suồng sã vào trong tác phẩm và làm đảo lộn nhiều giá trị. Thơ ca xưa nay vốn phân biệt rõ ràng ngôn ngữ đời thường và ngôn ngữ thi ca. Thế mà ở đây, ngôn ngữ thi ca lại làm nền cho ngôn ngữ đời thường. Phải chăng, nhà thơ muốn đưa ra yêu cầu của mình về tính dân chủ cho chữ nghĩa?
Nếu như trong sáng tác hiện đại rất ý thức về tác giả, về bản quyền tác giả trên tác phẩm mình. Còn nhiều nhà thơ đương đại lại nghĩ ngược lại: “Chẳng có gì là độc sáng cả. Mỗi sáng tạo là một vi phạm bản quyền, nhiều hay ít, ẩn hay hiện, lộ liễu hay kín đáo, nên họ không kiêng nể sử dụng ngay tác phẩm có sẵn và chế tác trên nó. Chắc chắn sẽ có phản ứng: Thơ như thế mà “khó” gì, cứ kí sinh trên tác phẩm của người khác, cứ xáo bừa mọi hình ảnh, ngôn từ, ý tưởng như nhà cái bầu tôm xóc đĩa làm thì cũng xong cái bài thơ. Và thơ để làm gì, nếu không sáng tạo được thêm thủ pháp mới, phương cách mới để khám phá hiện thực, nói lên tiếng nói sâu sắc, mới lạ để làm rung động lòng người?”. Như vậy, hiện nay đã và đang có nhiều ý kiến khác nhau về mảng thơ giễu nhại.
Nhân đây, chúng ta cũng nên đề cập đến những ý kiến ngược chiều. Ta thấy, thơ giễu nhại lấy được tiếng cười của đông đảo người đọc và cũng khiến chúng ta phải suy tư nhiều về đối tượng được giễu nhại nhằm hướng đến khai thác nội dung ý nghĩa mà tác giả phản ánh. Thế nhưng, đó chưa phải là tất cả. Thơ giễu nhại cũng nhận không ít lời phản bác, những ý kiến trái chiều nhưng cũng xuất phát từ cái lí vốn có xưa nay. Điển hình là bài thơ “Thời hoa đỏ lè” chúng ta vừa nhắc đến ở trên, có nhiều người xem đây là lối viết “đạo văn”  người khác của Bùi Chát. Đúng như Lý Đợi từng phát biểu: “Thơ nhiều khi chỉ là chuyện gây hấn, một chút hài hước, một cú sốc nhận thức, thậm chí là một trò đùa nơi bàn nhậu, chẳng kém phần nhảm nhí.” Song, với kiểu viết bị xem là “đạo văn” ấy, chúng ta đã có thêm một bài thơ nữa cũng khá thú vị. Hai bài thơ “Thời hoa đỏ” và “Thời hoa đỏ lè” ngày nay được nhắc đến song song với nhau nhưng không hề thâm nhập vào nhau, tất nhiên cũng không phải “tuy hai mà một” mà đó là hai tác phẩm hoàn toàn độc lập.
Thơ giễu nhại luôn biến thiên trước sự rào đón của người tiếp nhận, khi trầm khi bổng nhưng “giọng điệu tưng tửng, lộng ngôn mà hài hước” của Bùi Chí Vinh đã thực sự gây ấn tượng mạnh đối với bạn đọc. Với hai tập thơ: “Thơ tình” và “Thơ đời”, tiếp nối “Thơ đạo” và “Thơ quậy”, tác giả đã chạm tới nhiều vấn đề của cuộc sống bằng ngôn ngữ thế tục, táo bạo, phóng đãng, ngang tàng. Ngay cả thơ bán cá, thơ ve chai, thơ xách dép...cũng hóa thành thơ trong giọng  ngạo nghễ giễu nhại mà đôi khi lại hết sức đau đớn:
            Đến nhà gặp bạn hiền bán cá
            Cá rô, cá sặc, cá thòi lòi
            Mà ta thì vốn thằng láu cá
            Thấy cá là chỉ muốn nướng trui.
           
Thấy cá là lại thèm một xị
Ít ly i lít với bạn hiền
Cuộc sống chẳng qua toàn mộng mị
Ma quỷ còn đá cá thần tiên ...
                                                (Thơ bán cá)
Hay:
Anh em ta đi bán ve chai
Thằng thì chột mắt, đứa cụt tay
Râu tóc để lâu thành võ hiệp
Tráng sĩ mà ưa nhắm thịt cầy.

Thực ra anh em ta đẹp trai
Không đẹp trai sao bán ve chai
Cái nhìn giá trị ngang vàng xịn
Con mắt nheo là hốt tiền xài...
                                                (Ve chai hành)
            Như vậy, ngoài hình thức giễu nhại theo kiểu liên văn bản, ta còn bắt gặp phổ biến những bài thơ được viết ra bằng chính trải nghiệm về cuộc sống xung quanh tác giả thông qua giọng thơ giễu nhại như ví dụ trên. Tác giả tinh ý đánh vào tâm lý của độc giả rồi khéo léo chuyển tải những vấn đề của xã hội hiện đại. Tất nhiên, bản thân độc giả cũng đủ nhạy cảm để nhận thấy rõ ngụ ý mà tác giả nói đến qua giọng thơ giễu nhại này.
            Điều này cũng được thi sĩ đất Ninh Thuận – Phú Trạm, bút danh Inrasara, thể hiện trong thơ của mình. Nhà thơ đã táo bạo nhại chính cái thế giới mà mình đang sống:
Tôi sống trong cộng đồng mà mọi thứ đều lùi.
Những đám cây mọc lùi nhỏ dần vào hạt mầm, tận kiếp trước hạt  mầm...
 Những ý tưởng nghĩ lùi về thời tiền sử, bản chép tay mọc thêm trang lật lùi  như thể hết làm thất lạc.
Ngôi nhà cô hàng xóm thuở bé thơ đổ nát được dựng trở lại...
 (Sống lùi)
            Thế giới đã “băng hoại”, không còn giữ những giá trị xưa. Câu thơ vắt từ dòng này sang dòng khác, khổ này sang khổ khác, nhân lên khao khát sống lùi: sống lùi để những cái “đổ nát được dựng trở lại” và gieo mầm cho sự hồi sinh.
 Ở góc nhìn hậu hiện đại, thơ giễu nhại còn được các nhà thơ từ bỏ cái thế giới đóng khung, hướng đến cái thế giới rã rệu, lắp ghép, phân mảnh, đứt đoạn... bằng kĩ thuật xốc ngửa, lắp ráp từ, sử dụng chất humour, pha tạp thể loại... để chạm vào những vấn đề tinh tế và nhạy cảm mà hầu như thơ ca trước đây còn ngại ngùng. Họ đưa vào thơ những ngôn từ tục tĩu để giễu nhại chính vấn đề mà mình đề cập đến.
 Tuy nhiên, cái gì thái quá cũng có mặt hạn chế của nó. Ngôn ngữ gần với đời sống dễ làm cho thơ mất đi chất thơ của nó. Quá nhấn mạnh tính suồng sã, thơ sẽ đông cứng ngay khi mới chào đời, kiểu như:
Yêu rồi mà
 Khỏi phân bua
Nửa đêm vui vẻ chạy đi mua condoms
         (Nắng Chia Nửa Bãi Chiều Rồi - Nguyễn Hoàng Nam)
Ta thử đến với tiếng “ha ha” trong “Bây giờ có người làm thơ như thế” của Nguyễn Đức Thiện để nói thêm về thơ giễu nhại:
Ha, ha, ha, thơ
Là một công nghệ huếnh lên, vo tròn, cưỡng hiếp, bắn chém, và
đồng tính luyến ái.
Đáng thương thay chữ ơi, bay chỉ còn là công cụ
Đáng thương thay, thơ ơi.
Ta chẳng hiểu được bay, và nhất định, bay chẳng hiểu gì ta…
Khoái thật, sướng thật, mê ly thật.
Hay trong bài “Có phải thế không”:
Nhưng quả là tôi dốt
Không biết làm thơ để mọi người chẳng thể hiểu gì
Với những bài thơ như vậy, ngôn ngữ đã thành công cụ để giễu nhại, cười đùa cuộc nhân sinh lấm lem nước mắt. Người ta cũng đã chạy theo phấn son hình thức mà bỏ quên cái bên trong cảm xúc, chạy theo lố lăng để hy vọng nổi tiếng cùng với tai tiếng. “Thơ đang bị bán rẻ gây nạn lạm phát, nạn phân biệt trung tâm với ngoại vi, truyền thống và hiện đại, xô người đọc vào mấy ngã hỗn mang. Thơ đang buổi chợ chiều, một mớ hỗn độn của chợ chiều thi ca (Dư Thị Hoàn). 
          Tương tự, khi đọc một số bài thơ của nhóm Mở Miệng như: Vẫn làm chồng tốt, Vô địch... hay sáng tác của nhóm Ngựa trời, ... Đây chính là mặt hạn chế mà tác giả của những tác phẩm ấy chắc chắn đã cố tình không nhận ra.
 Mặt khác, hậu hiện đại chấp nhận sự phỏng nhại, cắt dán nên một số người tuyên ngôn “đạo thơ” công khai để sinh hạ những nàng thơ “quảng cáo”: “Lactacyd FH, với công thức đặc biệt gồm hai thành phần tự nhiên là Acid lactic và Lactoserum (chiết suất từ sữa), không chỉ giúp rửa sạch, giảm ngứa, loại trừ vì khuẩn gây viêm nhiễm và mùi hôi, mà còn củng cố cơ chế bảo vệ tự nhiên của âm [dương] đạo [tặc]” (Lý do thích hạp cho mọi người trong việc tiêu [chảy] tiền [bạc] hay còn gọi là bài thơ có tên: "Chăm sóc bạn gái hàng ngày" – Bùi Chát). Kiểu thơ giễu nhại quảng cáo như thế không phải là trường hợp hiếm gặp. Đọc những bài kiểu này, người đọc dễ dàng bật cười nhưng khó có thể chấp thuận.
         Tóm lại, khi đi vào quỹ đạo nền thơ thế giới, mấy năm qua các cây bút trẻ tiếp thu nhiều yếu tố mới mẻ, tích cực ở các phong trào thơ Âu Mỹ như cách tân hình thức, thơ ngôn ngữ, thơ trình diễn, đặc biệt cái từ trường đang lôi kéo các nhà văn, thi sĩ đi tìm cái mới là “lối viết hậu hiện đại”. Nhiều tác giả đã thu được một số điều bổ ích trong quá trình sáng tạo, nhiều yếu tố mới có mặt trong thơ của một số nhà thơ trẻ như lối kết cấu đa tầng, hình tượng kỳ ảo - huyễn tưởng, cắt dán- lắp ghép, tục hoá và giễu nhại… Nhiều thủ pháp tân kỳ mới nhập vào từ nền thơ phương Tây, tuy chỉ tồn tại như những khúc dạo đầu nhưng cũng có nhiều hứa hẹn…
            Riêng về thơ giễu nhại, mặc dù có nhiều ý kiến khác nhau, đồng tình và phản đối, hưởng ứng và phê phán, song chúng ta cũng cần khẳng định, thơ giễu nhại đã, đang và hi vọng sẽ góp phần làm phong phú và đa dạng hơn thi đàn văn học dân tộc theo hướng tích cực nhất.

Không có nhận xét nào: