Phê bình nữ quyền luận
bắt đầu thịnh hành từ cuối thập niên 1960 và đầu thập niên 1970, một mặt, như
một nỗ lực lý thuyết hoá các phong trào tranh đấu cho nữ quyền rầm rộ trong xã
hội Tây phương lúc bấy giờ; mặt khác, như một bước phát triển mới những phát
hiện táo bạo của hai nhà văn nữ nổi tiếng khá lâu trước đó: Virginia Woolf và
đặc biệt, Simone de Beauvoir.
Trong cuốn Le deuxième sexe, xuất
bản lần đầu năm 1949, Beauvoir phê phán gay gắt là nền văn hoá phụ hệ đã đẩy
phụ nữ ra vị trí ngoài lề của xã hội cũng như của văn học nghệ thuật. Trong văn hoá ấy, nam giới
đồng nghĩa với nhân loại, đồng nhất với lịch sử, còn phụ nữ thì bị nhìn như một
“cái Khác” (Other), lúc nào cũng ở vị thế phụ thuộc, phải dựa vào nam giới mới
có thể tự định nghĩa được chính mình.
Các nhà nữ
quyền luận sau này xuất phát từ rất nhiều giác độ khác nhau, với những phương pháp luận có khi khác hẳn nhau, đều cùng
chia sẻ một số niềm tin chung.
Một, tất cả những cái gọi là chủ thể tính, bản
ngã và bản sắc, bao gồm cả bản sắc của nữ giới – thường được gọi là nữ tính –
không phải là những gì tất định và bất biến, hay nói như Beauvoir, “người ta
không sinh ra là phụ nữ, người ta trở thành phụ nữ.”
Hai, cơ chế tiêu biểu nhất trong việc đàn áp phụ
nữ chính là nền văn hoá phụ quyền, hay thỉnh thoảng, với một số nhà
nữ quyền, còn được gọi là nền văn hoá duy dương vật (phallocentric
culture).
Và ba, nhiệm vụ của các cây bút nữ không phải chỉ
là chống lại mọi hình thức áp chế của nam giới mà còn phải cố gắng xác định một
thứ mỹ học riêng của nữ giới, từ đó, thiết lập nên những điển phạm riêng, và
cuối cùng, xây dựng những tiêu chí riêng trong việc cảm thụ và đánh giá các hiện
tượng văn học.
Nói đến những khác biệt giữa giới tính nam và nữ,
người ta thường căn cứ trên năm yếu tố chính: sinh lý, kinh nghiệm, vô thức,
các điều kiện kinh tế, xã hội và diễn ngôn.
Ngày xưa (và hiện nay vẫn còn, ở một số nơi nào
đó trên thế giới), người ta căn cứ chủ yếu vào yếu tố sinh lý để chứng minh phụ
nữ là những “người đàn ông bất toàn” (imperfect men), là
những kẻ không có gì cả, trừ… tử cung (tota mulier in utero / woman is nothing
but a womb); sau, dưới ảnh hưởng của Freud, người ta xem phụ nữ là những kẻ
không có cu và không lúc nào không bị day dứt bởi mặc cảm bị thiến (castration
complex).
Một số nhà nữ quyền luận muốn chứng minh ngược
lại: chính nhờ một số đặc điểm riêng biệt về sinh lý, như việc có kinh, có
thai, có sữa và sinh đẻ, người phụ nữ có quan hệ gần gũi và mật thiết với thế
giới vật lý và với hiện thực nói chung hơn hẳn đàn ông. Những phân tích này dẫn
một số nhà nữ quyền luận đến với phân
tâm học: trong khi nam giới, khi chớm có ý thức, đã phải tách ra khỏi mẹ
của mình để nhập vào thế giới phụ quyền của bố, phụ nữ, ngược lại, ở mãi với
mẹ, xây dựng bản sắc của mình bên cạnh mẹ. Những chọn lựa ban đầu này hằn trong
vô thức của hai giới những dấu ấn không dễ gì phai nhạt: nam giới hay nghĩ đến
quyền, nữ giới hay nghĩ đến trách nhiệm; nam giới thích những sự thay đổi, nữ
giới thích sự ổn định; nam giới thích thứ trật tự phân cấp (hierarchical
orders), nữ giới thích sự hài hoà. Các nhà Mác-xít tìm cách giải thích những
khác biệt và nhất là cách biệt giữa nam và nữ ở các điều kiện kinh tế và xã hội,
từ hệ thống giáo dục đến cách phân công lao động và cách tổ chức gia đình, vốn
có truyền thống nằm trong tay nam giới và ưu tiên dành hẳn cho nam giới.
Năm 1968, trong cuốn Sex and Gender: On
the Development of Masculinity and Femininity, Robert Stoller phân biệt
hai khái niệm giống (sex) và giới tính (gender): trong khi giống gắn liền với
đặc điểm sinh lý, giới tính là yếu tố do văn hoá quy định, gồm toàn bộ những
phản hồi được điều kiện hoá đối với cách nhìn của xã hội về tính cách của nam
và nữ.
Ðây là một trong những nền tảng tư tưởng của các
nhà nữ quyền luận thuộc thế hệ thứ hai: trong khi những khác biệt về sinh lý là
những điều không thể tránh khỏi, họ tập trung vào những sự bất bình đẳng xuất
phát từ văn hoá, gắn liền với những phạm trù giới tính như “nam tính”
(masculinity) và “nữ tính” (femininity).
Từ cuối thập niên 1980, dưới ảnh hưởng của hậu cấu trúc luận và chủ nghĩa hậu hiện đại, các nhà nữ quyền
thuộc thế hệ thứ ba cho vấn đề giới tính thực chất là vấn đề thể hiện
(representation), một hệ thống biểu trưng hay hệ thống ý nghĩa nối liền các giống
với những nội dung văn hoá tương ứng với những giá trị và đẳng cấp xã hội tương
ứng. Theo Barbara Johnson, vấn đề giới tính thực chất là vấn đề ngôn ngữ; theo
Dale Spender, cái ngôn ngữ chúng ta đang sử dụng hiện nay vốn là ngôn ngữ do
nam giới tạo ra: bà gọi đó là “man-made language”; theo Judith Butler, cả giống
lẫn giới tính đều có tính chất trình diễn (performance), sản phẩm của một ma
trận tính dục dị giới (heterosexual matrix); và theo Hélène Cixous, khái niệm
“Từ tâm luận” (logocentrism), vốn được xem là nền tảng của văn minh Tây phương,
gắn liền chặt chẽ với chủ nghĩa duy dương vật (phallocentrism), ở đó, nam giới
luôn luôn đóng vai trò thống trị.
Trong lãnh vực văn học, Annis Pratt cho phê bình nữ quyền luận nhắm đến bốn mục tiêu
chính: một, cố gắng phát hiện và tái phát hiện các tác phẩm văn học của phụ nữ; hai, phân tích và
đánh giá các khía cạnh hình thức văn bản của các tác phẩm ấy; ba, tìm hiểu xem
những tác phẩm ấy đã phản ánh quan hệ nam nữ ra sao; và bốn, mô tả những sự
phát triển của các yếu tố liên quan đến huyền
thoại và tâm lý liên quan đến người phụ nữ trong văn học.
Tuy nhiên, không phải ai cũng đồng ý với những
mục tiêu này. Lillian S. Robinson lý luận là bốn mục tiêu ấy xác lập trên cơ sở
bốn cách tiếp cận quen thuộc dựa trên: thư mục, văn bản, chu cảnh (hay xã hội
học) và phê bình theo khuynh hướng cổ mẫu (archetypal criticism), và cả bốn
đều là sản phẩm của nam giới. Bởi vậy, nhiệm vụ của các nhà
phê bình nữ quyền luận là phải xa lánh thay vì đi theo các cách tiếp cận
ấy.
Elaine Showalter cổ xuý cho sự ra đời của cái bà
gọi là “nữ phê bình gia” (gynocritics), bên cạnh loại phê bình nữ quyền
(feminist critique) đã có, ở đó, phụ nữ chỉ tham dự với tư cách người đọc.
“Nữ phê bình gia” có nhiệm vụ xác lập cái khung lý thuyết và mỹ học riêng để
phân tích các tác phẩm văn học của phụ nữ, để phát triển những mô hình phê bình
dựa trên kinh nghiệm riêng của phụ nữ hơn là chỉ tiếp nhận những mô hình và lý
thuyết do nam giới dựng nên.
Trên thực tế, tham vọng thoát ra ngoài các lý
thuyết được xem là mang dấu ấn phụ quyền đã có không phải là điều dễ. Bản thân
cách tiếp cận dựa trên văn bản của Showalter cũng chỉ là một sự thừa kế muộn
màng của Phê
Bình Mới vốn thịnh hành mấy thập niên trước đó mà thôi. Hầu hết các nhà phê
bình nữ quyền luận khác đều nằm trong những cái khung quen thuộc khác: hoặc
phân tâm học hoặc hậu cấu trúc luận hoặc Mác-xít (còn được gọi là chủ nghĩa nữ quyền duy vật, materialist
feminism).
Một lý thuyết và một phương pháp luận thực sự
riêng biệt dành cho nữ giới hình như vẫn còn là một hoài bão.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét