|
Hai tháng
nay các báo mạng và báo giấy có rất nhiều bài viết tâm huyết, gay gắt ,
quyết liệt… chứa chan nỗi bức xúc cao ngất đến tận trời xanh – về việc
Hội nhà văn Việt Nam trao giải thưởng thơ 2011 – 2012 cho các tác giả
làm thơ cách tân Mai Văn Phấn, Đinh Thị Như Thuý, Đỗ Doãn Phương… Và đặc
biệt nhất là sau sự kiện Viện Văn học Việt Nam tổ chức Hội thảo "Thơ
Việt Nam hiện đại và Nguyễn Quang Thiều” ngày 28 tháng 6 vừa qua – thì
nỗi bức xúc của các quan niệm như đối chọi nhau giữa thơ truyền thống và
thơ cách tân – được bùng nổ đến cao trào. Suy ngẫm về sự bùng nổ này,
tôi thấy nó nảy ra một số vấn đề chúng ta cần phải quan tâm.
Một là: Dân Việt Nam ta còn yêu thơ nồng nàn và say đắm lắm. Bởi vì thơ
là máu thịt và hồn cốt thiêng liêng của toàn dân tộc từ ngàn xưa. Do đó
những giá trị chân chính của thơ ca của cha ông chúng ta còn sống mãi
đến ngày nay. Chừng nào còn dân tộc Việt nam trên mặt đất này, thì ca
dao dân ca và thơ của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân
Hương… còn sống mãi. Thời thế như thế nào thì sẽ có thơ song hành với nó
như vậy – nhưng vẫn cần đảm bảo tiêu chí là phải hay. Cái hay này phải
được tâm thế chân chính và trong sáng của người Việt Nam cùng thời với
sự xuất hiện của tác phẩm (và đời sau nữa) – chấp nhận và dung nạp nó
vào làm tài sản tinh thần của dân tộc.
Thơ là một thuộc tính tâm hồn thiêng liêng và hết sức mãnh liệt của
người Việt Nam. Do vậy người ta quan tâm đặc biệt tới mọi động thái, dẫu
rằng rất nhỏ mơ hồ đối với ngôi đền thơ thiêng liêng của họ. Và sự đối
chọi quyết liệt của hai quan niệm thơ truyền thống và thơ cách tân – đã
làm bùng nổ sự bức xúc trong lòng người yêu thơ chân chính – cũng là
điều dễ hiểu. Sự quan tâm của bạn đọc, bạn viết đối với thơ như vậy – đó
cũng là niềm vinh dự và hạnh phúc cho người cầm bút. Còn gì buồn hơn
khi một tác phẩm thơ tâm huyết, được thai nghén bao tháng ngày – nay
chào đời mà chỉ nhận được cái nhìn dửng dưng của người đời. Theo tôi
nghĩ, dẫu bạn đọc nhỡ có chê thơ mình dở chăng nữa, thì cũng chẳng nên
lấy đó làm buồn. Chỉ nên buồn thoảng qua thôi, vì dù sao, như vậy là họ
có quan tâm đến mình, đọc thơ của mình và mới nhận ra đó là thơ gì theo
cảm nhận của họ. Thời buổi này, nào ti vi, nào chiếu bóng, nào khiêu
vũ… và vô khối các trò chơi quyến rũ khác chi phối khán thính giả. Vì lẽ
đó, có người để mắt tới thơ mình, đã là vui rồi. Người ta chê thơ mình –
đó là sự cảnh tỉnh yêu dấu. Người làm thơ (trong đó có tôi, Triệu Lam
Châu) cần hết sức tỉnh táo và bình tĩnh mà vui vẻ nhận lấy những lời chê
yêu dấu ấy, để phấn đấu nỗ lực hơn nữa. Thể nào rồi ông trời cũng có
mắt…
Hai là: Hội Nhà văn Việt Nam và Viện Văn học Việt Nam từ ngày thành lập
đến nay vẫn là những ngôi đền thiêng trong lòng bạn đọc yêu thơ cả nước
và cả bạn bè quốc tế nữa. Suốt mấy chục năm qua hai cơ qua văn học lớn
này đã có những chiến lược lớn và thực hiện những chiến lược ấy có bài
bản, có hệ thống và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong vấn đề
gìn giữ và phát huy những giá trị văn chương cao quý của cha ông chúng
ta. Những thành tựu ấy đã được toàn thể dân tộc và bạn bè quốc tế công
nhận. Đó là một niềm tự hào chính đáng.
Tôi hiểu Ban lãnh đạo ngày nay của hai cơ quan lớn này rất muốn tạo ra
một bước đột phá mới đầy ngoạn mục trong việc sáng tác văn học nói chung
và làm thơ nói riêng. Sự đột phá này chủ yếu nhằm vào sự cách tân thi
pháp thơ. Các vị ấy mong mỏi (và bạn đọc chúng ta cũng mong mỏi không
kém) là sẽ tạo ra một bước ngoặt vĩ đại tương tự như là bước ngoặt 1930 –
1945 với phong trào thơ mới, đã từng có trong lịch sử văn học nước nhà.
Đó là một động cơ hết sức trong sáng và đáng trân trọng vì sự nghiệp
chung, sự nghiệp phát triển văn học nước nhà.
Trước thực trạng rất nhiều nhà thơ làm thơ theo phong cách truyền thống
(chắc là do nhiều nguyên nhân, mà chủ yếu là tài năng hạn chế) – đã công
bố những bài thơ mang vị nhạt, không còn nhiều lửa lòng trong tác phẩm
như xưa nữa – Hội Nhà văn Việt Nam đã trao giải thơ năm 2011 – 2012 cho
những tác giả làm thơ cách tân, với hy vọng tạo ra một phong trào cách
tân thơ – để nền thơ ta hay lên chăng? Ý tưởng ấy thật nhân hậu, thật
giàu tinh thần trách nhiệm! Trước khi nói đến chất lượng của giải thưởng
thơ Hội Nhà văn Việt Nam năm 2011 – 2012, chúng ta cũng cần phải ghi
nhận ý tưởng nhân hậu và giàu tinh thần trách nhiệm ấy của Lãnh đạo Hội.
Ba là: Theo các nhà nghiên cứu, thì trong xã hội ta hiện nay và cả trong
văn học nghệ thuật nữa – đang có sự loạn chuẩn. Những giá trị cách đây
không lâu được tôn vinh, thì nay bị lờ đi, thậm chí bị loại khỏi đời
sống của một số người chạy theo thời thượng. Thí dụ lòng chung thuỷ
trong tình yêu đôi lứa. Từ xưa giá trị này luôn được đề cao trong xã hội
ta. Còn bây giờ hẳn dân chúng vẫn coi lòng chung thuỷ là giá trị thiêng
liêng, nhưng trong thơ và trong nhạc (nhất là của các tác giả trẻ),
thậm chí có những câu: Tình yêu đến ta không mong đợi gì. Tình yêu đi ta
không hề nuối tiếc….
Tôi không đi sâu vào nguyên nhân phát sinh sự loạn chuẩn này. Tôi chỉ
muốn nói chúng ta phải ứng xử như thế nào, để bớt đi sự loạn chuẩn ấy.
Hồi xưa đã có chuẩn mực của việc làm thơ, theo tôi hiểu như sau:
Thơ là thiêng liêng là tâm huyết và vô cùng cao quý. Chính vì vậy nó rất
sang trọng, nó không dung nạp sự vô văn hoá. Và nhờ vậy, đọc thơ như là
sự thanh lọc tâm hồn. Thơ là thuốc bỗ dưỡng tâm hồn.
Trước tiên hãy làm một con người tốt và một công dân tốt đã, rồi mới làm
thơ. Phải có sự trải nghiệm cuộc sống sâu xa và có tài năng, có tâm
huyết, đồng thời phải lao động nghệ thuật nghiêm túc – thì mới có cơ hội
có thơ hay.
Thơ phải mang những nỗi niềm của đông đảo dân chúng và của lòng mình.
Do những chuẩn mực cơ bản như vậy về nội dung, nên hình thức thơ phải
làm sao tác động hiệu quả nhất đến tâm hồn người đọc tri âm. Người đọc
sẽ cảm thơ, hiểu thơ, yêu thơ, rồi cuối cùng là thuộc thơ. Xưa nay thơ
hay thường là thơ trong sáng, giản dị, đẹp đẽ và ngân vọng trong lòng ta
như tiếng hát tri âm không bao giờ phai.
Hẳn là còn nhiều chuẩn mực khác nữa của việc làm thơ, nhưng tôi chỉ nêu khái quát vài điều như vậy theo cách hiểu của mình.
Những giá trị của lối làm thơ theo phong cách truyền thống, thì đã được
khẳng định bằng những tác phẩm tuyệt vời trong quá khứ. Ai cũng thống
nhất điều này. Làm thơ theo phong cách truyền thống, mà để có thơ hay
trong thời đại ngày nay – là điều khó vô cùng. Người làm thơ phải lao
động với một tinh thần nỗ lực khổng lồ trong nhiều năm, nhằm lĩnh hội
tương đối đầy đủ cái vốn của truyền thống để lại – để rồi từ đó kế thừa
một cách đắc đạo nhất. Đổi mới thơ theo kiểu kế thừa như vậy, theo tôi,
Triệu Lam Châu, là một con đường cách tân thơ đúng hướng và chân chính
nhất. Và như vậy sản phẩm thơ theo hướng này vừa mới mẻ lạ lẫm, vừa quen
thuộc và hẳn sẽ không có sự bức xúc của bạn đọc và bạn viết như hai
tháng vừa qua.
Công bằng mà nói chúng ta cần ghi nhận sự nỗ lực đổi mới thơ của các nhà
thơ Nguyễn Quang Thiều, Mai Văn Phấn, Đinh Thị như Thuý… Họ cũng lao
động thơ ghê gớm lắm, mới làm ra những vần thơ mới và lạ như vậy. Chắc
chắn họ lao động nghệ thuật cũng không phải là hời hợt đâu. Tôi chưa
khẳng định thơ của mấy nhà thơ này hay hay không hay – mà cứ kiên trì
chờ thời gian và công chúng thẩm định.
Giữa lúc chuẩn mực mới của thơ cách tân, chưa được hình thành và bám
rễ vững chắc trong cảm nhận của người yêu thơ chân chính ngày nay – thì
việc đề cao một cách thái quá, cổ vũ mãnh liệt như là ép trái chín, để
mong có một phong trào thơ cách tân đạt chất lượng sáng láng – đã gây
sốc chính đáng trong lòng bạn đọc. Và nhiều bạn đọc bạn viết phản ứng,
cũng lại là điều dễ hiểu.
Có lẽ chuẩn mực mới chưa thống nhất, chưa được khẳng định, nên trong
tình cảnh bức xúc đối chọi mãnh liệt giữa hai quan niệm thơ truyền thống
và thơ cách tân như vậy – mà vẫn chưa có những bài viết phê bình thuyết
phục để nêu lên cái tinh hoa của thơ cách tân của mấy nhà thơ trên đây
chăng?
Tôi không bàn đến những bài viết không mấy thuyết phục nhằm đề cao thơ
cách tân vừa qua. Tôi chỉ xin nói đôi lời về những bài viết tỏ ra băn
khoăn, chưa thống nhất với chất lượng của giải thưởng thơ năm 2011 –
2012 của Hội Nhà văn Việt Nam trao cho Mai Văn Phấn, Đinh Thị như Thuý
và Đỗ Doãn Phương…(Nhà thơ Từ Quốc Hoài cũng nhận giải kỳ này. Nhưng có
lẽ thơ ông cách tân đúng hướng theo lối kế thừa truyền thống, nên dễ
được bạn đọc chấp nhận).
Sau khi giải thưởng thơ năm 2011 – 2012 của Hội Nhà văn Việt Nam được
công bố, thì liền có ngay một số bài viết về chất lượng của giải này.
Tôi xin điểm lại một số bài đáng chú ý như sau:Nhìn lại giải thưởng thơ
2011 ( của ông Đỗ Ngọc Yên), Sao Hội Nhà văn Việt Nam lại hè nhau tiễn
thi ca lên đoạn đầu đài (nhà thơ Trần mạnh Hảo), "Hoan ca” của Đỗ Doãn
Phương làm hỏng tiếng Việt và thơ Việt (nhà thơ Đỗ Hoàng), Lạm phát thơ
và cố trao giải cho thơ (nhà văn Nguyễn Hiếu), Trường hợp Đỗ Doãn
Phương, khen quá lời (nhà thơ Nguyễn Hữu Quý).
Tôi thấy bài viết của ông Đỗ Ngọc Yên khi nhìn lại giải thưởng thơ 2011
là hết sức dè dặt và chừng mực, song vẫn toát lên một sự băn khoăn về
chất lượng của giải.
Còn các bài viết của các nhà thơ Trần Mạnh Hảo, Đỗ Hoàng và bài của nhà
văn Nguyễn Hiếu thì phản đối kịch liệt, có lúc đến mức cực đoan, khi
Hội Nhà văn Việt Nam trao giải thơ 2011 – 2012 cho các tác giả Mai Văn
Phấn, Đinh Thị Như Thuý, Đỗ Doãn Phương… Họ coi đó là thơ chất lượng
kém, là lạm phát thơ, thậm chí không phải là thơ… Chính vì do việc Hội
Nhà văn Việt Nam trao giải thơ năm 2011 – 2012 cho các tác giả trên, mà
Trần Mạnh Hảo bức xúc quá và viết lên rằng "Sao Hội Nhà văn Việt Nam lại
hè nhau tiễn thi ca lên đoạn đầu đài" (nhà thơ Trần mạnh Hảo)
Dẫu lời lẽ trong các bài viết trên nhiều khi rất căng thẳng và khó
nghe, nhưng rõ ràng các tác giả đều có một mong muốn trong sáng và chính
đáng. Đó là thơ được trao giải thưởng của một Ngôi đền văn học lớn và
thiêng liêng như Hội Nhà văn Việt Nam – thì thơ đó phải hay và phải được
mọi người công nhận. Các tác giả các bài viết trên coi thơ cách tân còn
đang ở dạng thể nghiệm, chưa được thẩm định của công chúng và thời gian
– là thơ không hay, thậm chí không phải là thơ.
Viết đến đây tôi lại chạnh buồn, buồn vô hạn. Vì sao vậy? Việc trao
giải thưởng thơ hàng năm của Hội Nhà văn Việt Nam, là một công việc lớn
và hệ trọng, vì chất lượng của giải thơ sẽ mang tính định hướng cho sáng
tác và tác động trực tiếp đến tâm hồn yêu thơ của cả một dân tộc. Vấn
đề lớn như vậy, thế mà nằm ngoài tai những nhà thơ đã được Đảng, nhà
nước và xã hội tôn vinh (vì những thành tựu của họ trong quá trình sáng
tác). Đó là những nhà thơ lão thành đã trải qua hai cuộc kháng chiến vĩ
đại của dân tộc trong thế kỷ 20. Đó là những nhà thơ đã nhận giải thưởng
Hồ chí Minh và giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật. Những vị ấy
thật sự có uy tín trong văn giới và trong xã hội. Tôi và bạn đọc cầu
mong những vị này lên tiếng về chất lượng giải thơ năm 2011 – 2012 của
Hội Nhà văn Việt Nam. Nếu thơ hay, thì các vị cần phân tích rõ ràng cho
bạn đọc thấy và coi đó là một chuẩn mực mới. Nếu thơ chưa hay, thì bằng
kinh nghiệm dồi dào của mình, các vị cũng cần cho ý kiến định hướng đi
ra sao?...
Cá nhân tôi thấy nhà thơ Trần Mạnh Hảo, nhà thơ Đỗ Hoàng và nhà văn
Nguyễn Hiếu tâm đắc và có trách nhiệm vô cùng với sự phát triển đúng
hướng của thơ – nên các vị ấy mới cầm bút viết những bài như trên.
Tôi muốn bạn đọc lưu ý thêm bài viết có tình, có lý của nhà thơ Nguyễn
Hữu Quý. Anh viết có tâm huyết, có lý luận thuyết phục về cái được và
chưa được trong thơ Đỗ Doãn Phương (Trường hợp Đỗ Doãn Phương, khen quá
lời). Lời văn trong bài viết của nhà thơ Nguyễn hữu Quý chừng mục, điềm
đạm, thuyết phục người đọc bằng chân lý là chủ yếu, chứ không phải bằng
nỗi bức xúc có thật của mình. Dẫu tôi biết Nguyễn Hữu Quý cũng bức xúc
lắm với chất lượng của giải thơ 2011 – 2012. Song anh vẫn bình tĩnh viết
"Tôi cũng không xếp được thơ anh. Đỗ Doãn Phương không có cái dòng mạch
cuồng nhiệt mê đắm của Vi Thùy Linh, không có cái tinh tế kiệm lời của
Phan Huyền Thư, không có cái liên tưởng phong phú của Nguyễn Phan Quế
Mai, không có cái ngồ ngộ của Du Nguyên, không có những vòng đồng tâm
trong thơ như Nguyễn Quang Hưng, không có sự bung mở tươi mới của Lữ Thị
Mai…Thơ Đỗ Doãn Phương chất nghĩ nhiều quá, lại khô khan, thiếu sự khám
phá tươi tắn của tuổi trẻ.
Xin nhắc lại, tôi thích bài Ngày cô mất của Đỗ Doãn Phương. Một bài thơ
tình ý quyện vào nhau, tự nhiên, chân thật, không cao giọng triết luận
mà người ta vẫn nhận ra cái đẹp của cuộc sống, của con người qua mối
quan hệ sinh-tử…Chỉ thế thôi. Và, tôi hy vọng anh sớm quên đi giải
thưởng vừa được nhận của Hội Nhà văn Việt Nam để có những tác phẩm hay”.
Nhà thơ Nguyễn Hữu Quý viết như vậy là thoả đáng. Riêng cái ý anh hy
vọng Đỗ Doãn Phương sớm quên đi giải thưởng vừa được nhận của Hội Nhà
văn Việt Nam – nghe sao mà cay đắng và chua xót thế? Vị cay đắng và chua
xót này, hẳn còn dai dẳng đeo bám lòng người yêu thơ chân chính trong
một thời gian dài nữa.
Rồi sự kiện Viện Văn học tổ chức Hội thảo "Thơ Việt Nam hiện đại và
Nguyễn Quang Thiều” ngày 28 tháng 6 vừa qua, tính đến thời điểm này
(ngày 12 tháng 7) – đã có những bài viết đáng chú ý như sau: Nguyễn
Quang Thiều đá phản lưới nhà (nhà văn, dịch giả PhạmViết Đào), Hội thảo
thơ hay là thổi kèm đám ma nền thi ca Việt Nam (Nguyễn Đình Chúc), Thơ
du dương hay tụng ca du dương (nhà thơ Nguyễn Hữu Quý).
Hai bài viết của nhà văn, dịch giả Phạm Viết Đào và của ông Nguyễn Đình
Chúc chỉ chăm chăm soi vào những nét hạn chế của thơ Nguyễn Quang
Thiều. Còn bài viết của nhà thơ Nguyễn Hữu Quý lại một lần nữa thể hiện
cái cái tâm sáng của mình đối với thơ. Ông viết như sau:
"…Thơ Thiều có những hình ảnh lạ như: Sông gục mặt vào bờ đất lần đi…,
những sự liên tưởng độc như: Những con cá thiêng quay mặt khóc/ Những
chiếc phao ngô chết nổi hoặc ý tưởng thâm thúy: Và cá thiêng lại quay
mặt khóc/ Trước những lưỡi câu ngơ ngác lộ mồi… Ghi nhận Nguyễn Quang
Thiều, theo tôi, là ở những chỗ đấy chứ không phải là sự chối bỏ, khước
từ sự véo von nhễ nhại, du dương tội nghiệp như ai đã nói.
Tôi nhớ Hữu Thỉnh có những bài thơ, câu thơ giàu nhạc tính và nhờ thế mà
nó được nhiều người nhớ, nhiều người thuộc, nhiều người thích. Bài Phan
Thiết có anh tôi tràn ngập sự đớn đau da diết là một ví dụ rõ ràng về
điều tôi vừa nói hay câu thơ này cũng vậy: Một đời người mà chiến chinh
nhiều quá/ Em níu giường níu chiếu đợi anh. Cái sự ngân rung vang vọng
trong câu thơ ấy đã rọi chiếu vào nỗi xót xa, nhẫn nhịn thăm thẳm và sức
chịu đựng kỳ vỹ của con người Việt Nam. Nếu cũng cái ý ấy, cảm xúc ấy
mà viết như thế này: "Hai mươi năm, ba mươi năm, bốn mươi năm, đời người
trải qua bao cuộc chiến chinh / Những người đàn bà đất nước tôi níu
chiếu, níu giường đợi người trở lại” thì chắc ai cũng bĩu môi chê dỡ. Sẽ
là vụng về biết bao khi câu thơ này của Trần Đăng Khoa: Mái gianh ơi
hỡi mái gianh/ Ngấm bao mưa nắng mà thành quê hương bị biến thành: "Mái
gianh ơi, mái gianh hỡi, ngấm bao nhiêu mưa, ngấm bao nhiêu nắng/ Mà
thành quê hương tôi”…Tuy nhiên, là nhà thơ có nghề không ai viết như thế
cả." (Thơ du dương hay tụng ca du dương - nhà thơ Nguyễn Hữu Quý).
Tóm lại sở dĩ có sự bùng nổ đến mức cao trào đối chọi nhau của hai quan
niệm về thơ truyền thống và thơ cách tân, là do chưa có sự thống nhất
về các chuẩn mực của việc làm thơ cách tân hiện nay.
Bốn là: Trước sự bùng nổ bức xúc không nên có như trên của bạn đọc và
bạn viết đối với giải thưởng thơ năm 2011 – 2012 của Hội Nhà văn Việt
Nam, tôi xin mạo muội đề xuất một phương án thực hiện mới, để sang năm
đến mùa trao giải thơ thì tránh lặp lại việc đáng tiếc vừa qua.
Ngày từ bây giờ (tháng 7 năm 2012) Hội đồng thơ Hội Nhà văn Việt Nam
cần thông báo ngay cho mọi tác giả có thơ thì gửi đến Hội để dự giải.
Những tác phẩm lọt qua vòng sơ khảo và chung khảo của Hội, thì phải được
công bố rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng, để mọi người
yêu thơ biết và tìm đọc. Dịp đó cũng công bố luôn dự định của Ban chung
khảo sẽ trao giải cho những tác phẩm thơ nào, kèm theo những nhận xét
đánh giá của Ban chung khảo về những tác phẩm dự định trao giải ấy.
Đồng thời Hội Nhà văn Việt Nam cần thành lập một Ban tiếp nhận ý kiến
phản hồi của bạn đọc về những tác phẩm thơ dự định sẽ được trao giải.
Các ý kiến phản hồi có trách nhiệm sẽ được báo cáo tổng kết chu đáo và
dựa vào đó Ban chung khảo xem xét lại dự định trao giải đã công bố của
mình, để quyết định lại cho thuận lòng người, thuận với chất lượng của
giải thơ cần trao.
Theo thiển nghĩ của tôi, nếu làm được như vậy, thì đến mùa giải thơ
sang năm 2013 hẳn sẽ không có sự bùng nổ bức xúc đến mức cao trào không
đáng có như mùa trao giải năm 2012 này. Mong mỏi lắm thay.
Tuy Hoà, chiều 12 tháng 7 năm 2012
T.L.C (Nguồn: BÔNG TRÀM)
__________________________________
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét