Thứ Hai, 4 tháng 5, 2020

Nhà thơ dân tộc Tày Triệu Lam Châu trên tiến trình hội nhập với nền thơ Việt Nam và thơ Quốc tế.



1.    Tiểu sử nhà thơ Triệu Lam Châu:
Nhà thơ Triệu Lam Châu là người con dân tộc Tày, quê ở Nà Pẳng, Đức Long, Hòa An, Cao Bằng, Hội viên Hội nhà văn Việt Nam, Hội viên Hội Văn học Nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam, tốt nghiệp Trường Đại học Mỏ Xanh Pêtécbua tại Liên bang Nga năm 1976, hiện công tác tại Trường Cao đẳng Công nghiệp Tuy Hoà, Phú Yên. Nhà thơ đã ấn hành 15 cuốn sách văn học, bao gồm thơ sáng tác, thơ dịch, tiểu thuyết dịch và hai đĩa hát CD – đồng thời đã từng đoạt Giải nhất toàn quốc Cuộc thi dịch văn học nước ngoài ra tiếng Việt năm 1994 do Hội nhà văn Việt Nam tổ chức, Giải nhất toàn quốc cuộc thi thơ về tình hữu nghị Việt – Nga năm 2000 do Trung ương Hội hữu nghị Việt – Nga tổ chức, Giải ba về âm nhạc năm 2007 của Uỷ ban toàn quốc  Liên hiệp các hội VHNT Việt Nam.
2.    Tiến trình hội nhập với nền thơ Việt Nam và Quốc tế:
2.1   Nhà thơ Triệu Lam Châu trên tiến trình hội nhập với nền thơ Việt:
2.1.1    Hội nhập trên phương diện nội dung:
2.1.2    Hội nhập trên phương diện hình thức nghệ thuật:
2.2   Nhà thơ Triệu Lam Châu trên tiến trình hội nhập với nền thơ Nga:
2.2.1    Hội nhập trên phương diện nội dung:
2.2.2    Hội nhập trên phương diện hình thức nghệ thuật:

Nhà thơ dân tộc Tày Triệu Lam Châu trên tiến trình hội nhập với nền thơ Việt và thơ quốc tế.

Mình vẫn tâm sự với bạn bè rằng: Hiện nay trong tâm hồn tôi có ba nền văn hoá: Văn hoá Tày – Văn hoá Việt và Văn hoá Nga.
Có thể nói: Thơ Triệu Lam Châu đã bước đầu hội nhập với nền thơ quốc tế, bằng tác phẩm Gagarin qua cầu treo Sông Mãng (Với bút pháp giao thoa văn hoá Tày – Việt Nga) từ năm 1992.

Quá trình hội nhập của thơ Triệu Lam Châu thể hiện ở các khía cạnh:
-         Kết hợp tinh tuý văn hoá Tày, văn hoá Việt và văn hoá Nga
-         Nội dung phản ánh mang tính quốc tế: Quan hệ giữa các nhân vật văn hoá Nga với văn hoá Việt, Tày. Các chùm thơ về nước Nga. Chùm thơ kỷ niệm chiến thắng Phát xít
-         Bút pháp thơ hiện đại, có nhiều sáng tạo độc đáo.
-          Chú trọng đào sâu vào tính cách Tày, tính cách Việt và tính cách Nga.
-         Thiên nhiên đẫm hồn Tày – Việt – Nga.
-         Dịch thơ Nga sang tiếng Việt, rồi sang tiếng Tày. Nếu người dịch là sứ giả - thì Triệu Lam Châu là sứ giả đầu tiên của thơ Tày giao dịch với thơ Nga… Triệu Lam Châu là viên gạch đầu tiên của mối quan hệ giữa thơ Tày với thơ Nga.
-         Không những thế Triệu Lam Châu còn dịch một loạt tiểu thuyết (qua bản tiếng Nga) của các nước Nga, Anh, Pháp, Thổ Nhĩ kỳ, Nhật Bản, Tiệp Khắc và Bun Ga ri – ra tiếng Việt Nam.
-         Trong ý thức và bằng hành động sáng tạo tác phẩm của mình – Triệu Lam Châu đều thể hiện nhất quán tư tưởng Hội nhập với văn đàn quốc tế, mà vẫn giữ được bản sắc văn hoá của dân tộc mình.


NHÀ THƠ LỚN VÔDƠNHEXENXKI TỪNG CÓ SÁCH BỊ CẤM




TRIỆU LAM CHÂU

Anđrây Vôdơnhexenxki sinh ngày 12 tháng 5 năm 1933, từ trần vào lúc 14 giờ 33 phút (giờ địa phương) ngày mùng 1 tháng 6 năm 2010, tại Mátxcơva, huởng thọ 77 tuổi. Ông bị bệnh tim đã lâu và đã trải qua ba lần mổ tim ở những bệnh viện danh tiếng nhất tại Mátxcơva. Dẫu những năm cuối đời, sức khoẻ yếu, nhưng bút lực thơ của ông vẫn không hề giảm sút.
Ông là một trong những nhà thơ lớn nhất của nước Nga và Liên bang Xô Viết trước đây, nổi tiếng từ những năm sáu mươi của thế kỷ trước, với những tác phẩm thơ và trường ca làm chấn động lòng người bởi bút pháp mới mẻ, độc đáo như: Bức tranh ghép, Chống hoà bình, Quả lê hình tam giác, Người thợ khắc, Quyến rũ, Những người thợ, Parabôn, Iunôna và điều may mắn… Đặc biệt trường ca Iunôna và điều may mắn, đã được chuyển thể thành vở diễn ôpêra. Vở diễn này đã trở thành tác phẩn sân khấu kinh điển và không hề vắng bóng trên các sàn diễn khắp nước Nga suốt từ thời Xô Viết đến nay.
Thơ ông trẻ trung, giàu những phát hiện mới mang tính thời đại cao. Do vậy nhiều nhạc sĩ đã phổ thơ ông thành những bài hát nổi tiếng như: Triệu bông hồng (đã được dịch sang tiếng Việt, nhiều thính giả nước ta rất thích bài hát này), Bài ca hát lại, Bắt đầu, Cô bé khóc trong tiếng súng…
Năm 1978 nhà thơ Vôdơnhexenxki vinh dự được Nhà nước Liên xô tặng giải thưởng quốc gia về văn học.
Nhà thơ Vôdơnhexenxki sinh ra và lớn lên ở Mátxcơva. Ông đã có năng khiếu làm thơ từ thuở nhỏ. Năm 14 tuổi ông mạnh dạn gửi những bài thơ đầu tay của mình tới nhà thơ Bôric Paxternak ( Người được trao giải Nôben về văn học năm 1958, với tiểu thuyết “Bác sĩ Givagô”). Nhà thơ lớn Paxternak hồi ấy, đã nhìn thấy năng khiếu thơ đầy triển vọng của Vôdơnhexenxki, nên đã hồi âm với những lời lẽ đầy cảm kích: “ Sự xuất hiện của cháu trên văn đàn, như sóng trào, như cánh chim bay vút. Tôi vui sướng và trông đợi nhiều ở cháu…”. Nhiều nhà phê bình Nga nhận định rằng: Chính nhà thơ Paxternak là người cha đỡ đầu của Vôdơnhexenxki về phương diện thi ca. Về sau này khi đã thành danh, Vôdơnhexenxki vẫn thường có những hồi tưởng đầy kính cẩn về người cha đỡ đầu thi ca của mình. Ông nói: “Mỗi lần gặp ông (nhà thơ Paxternak), tôi như được gặp ánh sáng của trời toả ra từ con người ông”.
Năm 1957 Vôdơnhexenxki tốt nghiệp Trường đại học Kiến trúc Mátxcơva. Năm 1958 ông bắt đầu có thơ đăng báo. Đặc biệt tập thơ “Bức tranh ghép”sau khi ấn hành, lại gặp sự cố. Tập thơ bị đụng độ với sự kiểm duyệt nghặt nghèo của chính quyền Khơrutsốp hồi ấy ( Khơrutsốp lúc đó là Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên bang Xô Viết. Theo nhận định của Đảng lao động Việt Nam hồi đó: Khơrutsốp là người theo chủ nghĩa xét lại). Liên luỵ tới tập thơ này, có cả cô biên tập viên Kapitalina Aphanaxiepva. Cô đã  bị buộc thôi việc ở nhà xất bản.
Thời những năm sáu mươi của thế kỷ hai mươi, công chúng Nga Xô Viết yêu thơ rất nồng  nhiệt. Có những buổi hội Thơ đông hàng mười mấy ngàn người tập trung ở sân vận động. Thế mà tất cả đều im phăng phắc lắng nghe những giọng đọc thơ hùng hồn của chính những nhà thơ trẻ Vôdơnhexenxki, Eptusenkô…
Chính thể Khơrutsốp không dung nạp tư tưởng tự do trong sáng tạo thi ca của Vôdơnhexenxki. Trong một hội nghị gặp gỡ giữa các nhà lãnh đạo Xô Viết với văn nghệ sĩ, khi nhìn thấy Vôdơnhexenxki, Khơrutsốp liền thét lên: “Ngài Vôdơnhexenxki, cút về nhà đi! Tôi chỉ cần ra lệnh cho Selepin, thì ông ấy sẽ ký ngay một tấm hộ chiếu cho ngài cút khỏi đất nước này”. Số phận của nhà thơ Vôdơnhexenxki được làm dịu bớt, bởi nhờ tổng thống Hoa Kỳ hồi ấy là Kenơđi đã gọi điện riêng cho Khơrutsốp, dàn xếp việc này.
Mặc dù vậy, nhưng chính quyền vẫn cho phép nhà thơ Vôdơnhexenxki đi tham quan nước Mỹ. Sau chuyến đi ấy, ông công bố trường ca “Quả lê hình tam giác”, và trở thành nhà thơ Xô Viết nổi tiếng nhất trên đất Mỹ.
Bạn đọc nước ta đã được làm quen với giọng thơ độc đáo của Vôdơnhexenxki qua một tập thơ nhỏ nhắn mang tựa đề “Chân dung Plixetxkaia” (Nhà xuất bản Tác Phẩm mới – Hội nhà văn Việt nam – 1983), do nhà thơ Tế Hanh tuyển dịch qua tiếng Pháp.
Sự quý trọng tài thơ của Vôdơnhexenxki gần như thống nhất trong các tầng lớp nhân dân Liên Xô trước đây và nước Nga hiện nay. Thơ ông mới lạ từ hình thức đến nội dung, từ cảm xúc đến cách thể hiện. Tư duy thơ ông lạ lùng và độc đáo khiến bạn đọc dẫu chỉ đọc một lần là nhớ mãi. Chẳng hạn như: Quả lê hình tam giác, Cái bóng của thanh âm, Parabôn, Phản vũ trụ, Phản vật chất…
Ông đưa những từ ngữ khoa học đậm chất thời đại vào trong thơ, với một niềm cảm hứng thơ mang tính công dân sâu sắc. Chính vì vậy ông nhận được sự ngưỡng mộ rộng rãi của bạn đọc yêu thơ.. Những hình ảnh bất ngờ và thú vị hiện diện trong thơ ông. Ông ví mắt con mèo như cái bóng điện rađiô. Lưng con cá trắng như tua bin thuỷ điện
Tư duy thơ độc đáo và lao động thơ chuyên cần của Vôdơnhexenxki, đã cho ông những phút xuất thần, mà có được những vần thơ hay đến lạ lùng, khi nói về nữ nghệ sĩ múa Balê tài năng Plixétxkaia (Cô là nghệ sĩ nhân dân, được giải thưởng Lênin. Là nghệ sĩ múa thiên tài) như sau:
Cô mang trong tên cô tiếng ào ào của những tràng tay vỗ
Có những cực địa lý, cực khí hậu từ trường
Plixétxkaia là cực huyền diệu…
Cô lôi cuốn cả căn phòng trong trận lốc điên cuồng của điệu múa,
Của lòng ham sống, cô chẳng buông tha.
Có những điệu múa im lặng, điệu múa như tuyết tan ra.
Điệu múa như ánh địa ngục.
Nếu mất đi, nó sẽ đốt cháy một nửa hành tinh!
Cả đến sự im lặng đó như rồ dại, sự im lặng của đợi
chờ, sự im lặng giữa tia chớp và tiếng sấm
Nhịp điệu của cô mang đầy chất nổ…
(Bản dịch của Tế Hanh)
Chúng ta đều biết rằng: Nước Nga là một trong những cái nôi tuyệt vời sản sinh ra nghệ thuật múa ba lê  tinh hoa của thế giới. Từ những năm bảy mươi của thế kỷ 19 nhạc sĩ thiên tài Nga Traicốpxki đã sáng tác ra vở nhạc múa ba lê “Hồ thiên nga” làm say đắm hàng trăm triệu người trên khắp hoàn cầu từ đó đến nay. Nghệ  thuật múa ba lê là dùng động tác múa của chân, tay và toàn bộ hình thể của con người, một cách rất tinh tế và hết sức điêu luyện để thể hiện nội dung tư tưởng của tác phẩm nghệ thuật. Xem những nghệ sĩ múa ba lê tài năng, ta có cảm tưởng như họ là những nàng tiên tuyệt vời nhất, được Đấng thiêng liêng trên trời phái xuống trần gian, để thể hiện nét huyền diệu vô cùng của Mường trời. Đến với múa ba lê là đến với những vẻ đẹp tột cùng của lý tưởng con người đậm đà chất nhân văn lai láng nhất. Mọi người đều ngưỡng mộ loại hình nghệ thuật siêu đẳng này. Và ta hãy nghe Vôdơnhexenxki xuất thần cảm xúc tột đỉnh của mình trước nghệ sĩ múa thiên tài: 
Tất cả mọi người đều đi theo chiều đứng
Nhưng có người lại muốn bay theo chiều ngang
Tất cả căn phòng như rên siết khi thân cô nghiêng trên 30 độ góc
Đây không những là sự chiến thắng sức hút
Ba lê là sự vượt qua bức tường của âm thanh…
(Bản dịch của Tế Hanh)
Thơ  Vôdơnhexenxki đã đến với bạn đọc nước ta gần ba chục năm nay . Rất nhiều bạn đọc nước ta ngưỡng mộ thơ ông, trong đó có người viết bài này. Tôi đã tìm đọc thơ ông bấy lâu nay. Và đã thử sức dịch thơ ông được đôi bài. Trong không khí đau thương tiễn ông lên Mường trời cao xanh, tôi xin mạo muội dẫn ra đây một bản dịch thơ ông, mà tôi đã chắp bút dịch nó ra tiếng Việt và tiếng Tày từ năm 2000:
Tiếng Việt:
Tắm ở Xibia
Tắm đi! Mở cửa nhanh nào!
Những cô gái trẻ nhảy vào tuyết trong
Rơnoa vẽ có nổi không
Khoả thân hình thể miền rừng Xibia?
Vai lưng xum xít ngoài kia
Như là đúc tự làng nghề thép ngân
Lửa trong, tuyết ánh khoả thân
Chúng tôi, bốn đứa trai tân ngợp hồn
Nóng ran trong áo lông chồn
Chúng tôi đùa bỡn dai hơn bao người.
Một cô dừng lại, mỉm cười
Ném ngay cục tuyết vào người bạn tôi.
(Triệu Lam Châu – dịch)
Tiếng Tày:

Áp đang d’ú Xibia
Khay tu khoái lớ! Áp lơ!
Mươi khao, slao ón oóc mà făn fi
Rơnoa vẹ đảy bấu d’è
D’ưởng đang kẻ gảng Xibia lủng làu?
Ngảm lăng noỏc t’ỉ phỏm pâu
T’ò t’ồng pẳn tứ chang đâư lỏ tiều
Ảnh mươi fầy kẻ gảng rièo
Slí ò boong khỏi, khoăn t’ièo báo tơn
Pích pôm chang bâư slửa khôn
Dùa căn loỏng lẻng nhịng gần slao nua.
A đeo d’ặng d’ú, nhúm khua
Bẳn căm mươi mẻn khảu ò bạn hây.
(Triệu Lam Châu – mjày)
Vào ngày mùng 4 tháng 6 nhà thơ Vôdơnhexenxki được mai táng ở nghĩa trang Nôvơđevichie.
Thành phố biển Tuy Hoà, đêm 2 tháng 6 năm 2010


TRIỆU LAM CHÂU: ĐỀ XUẤT TỪ NGỮ TIẾNG VIỆT MỚI HIỆN ĐẠI




Kính thưa bạn đọc yêu quý. Tôi là nhà thơ, dịch giả, nhạc sĩ Triệu Lam Châu, Hội viên Hội nhà văn Việt Nam, một người con trăm phần trăm của dân tộc Tày thiêng liêng của chúng ta. Sở dĩ tôi phải xưng danh dài dòng như vậy, bởi vì những điều tâm huyết hết sức khổng lồ của tôi về tiếng Việt, oái oăm thay lại xuất phát từ những việc làm cụ thể trong việc sáng tạo ra từ ngữ tiếng Tày mới hiện đại ( Mà bạn bè trí thức trong cộng đồng dân tộc Tày đều công nhận là một công việc vô cùng đồ sộ). Tôi sẽ không đi sâu vào việc đề xuất sáng tạo ra những từ ngữ tiếng Tày mới ra sao. Bởi vì tôi đã có hai bài tâm sự vô cùng tâm đắc về vấn đề đó trên trithucdantocthieuso.net rồi. Bạn nào quan tâm, thì vào mạng www.google.com, rồi vào trithucdantocthieuso.net, vào tiếp mục Tiếng nói đa chiều, sẽ thấy bài Đề xuất một số từ ngữ tiếng Tày mới hiện đại – Triệu Lam Châu.



Có thể nói kể từ năm 1960, đất nước ta tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Một loạt hiện thực mới trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá giáo dục, y tế, quân sự, anh ninh, công nghiệp, nông nghiệp… khoa học kỹ thuật… - tiếng Tày đều không có từ để diễn đạt. Một con số không lồng lộng và vĩ đại, cao hơn cả ngọn núi Chô Mô Lung Ma nữa cơ. Trí thức Tày muốn diễn đạt các nội dung liên quan tới các lĩnh vực trên, thì đều đành phải mượn tiếng Kinh gần như trăm phần trăm. Nếu chúng ta không sáng tạo ra từ ngữ tiếng Tày mới hiện đại, thì có thể nói không ngoa rằng tiếng Tày đành phải chấm dứt tại đây thôi. Đó là một sự thật đau đớn phũ phàng. Là một người Tày chân chính, Triệu Lam Châu không thể chấp nhận sự thật này. Và tôi nguyện làm người điếc không sợ súng, xin mạnh dạn đề xuất tiếng Tày mới hiện đại. Đúng là một kẻ điên rồ. Đây là một công việc rất lớn của rất nhiều người, phải tiến hành trong nhiều thế hệ mới hy vọng hoàn thành. Song hiện nay chưa ai làm, thì Triệu Lam Châu xin làm đầu tiên vậy. Dự kiến làm mười năm, sẽ được khoảng mười ngàn từ Tày mới hoàn toàn.

  Phương châm của tôi là không mượn thêm tiếng Hán, không mượn thêm tiếng Việt, chỉ chấp nhận những từ mà cha ông người Tày đã mượn từ trước rồi. Cũng may là xã hội Tày hồi xưa chưa giao lưu rộng, nên số từ ngữ mượn từ các ngôn ngữ khác, là rất ít.
Trong quá trình đề xuất sáng tạo ra từ ngữ Tày mới hiện đại, tôi đã gặp phải cả một dãy núi khó khăn trùng trùng điệp điệp. Song nhờ sự nỗ lực phi thường của Triệu Lam Châu, Bà mẹ Hoa (Đấng sáng tạo của muôn loài, theo tâm thức của gười Tày) – đã mở lòng ban cho tôi một số kết quả ban đầu rất khả quan. Đến nay tôi đã làm được một ngàn hai trăm từ Tày mới hoàn toàn.

 Xin phép nêu ra đây một số từ Tày mới điển hình do Triệu Lam Châu tìm ra như sau: Tần số dao động (mạ uây), tự do (táng thư), cơ chế (t’àng mạ), tế bào (nhòn cốc), điện thoại di động (slai tâu tẻ toót), kích hoạt (khoét thư), tư bản (pỏn nhoản), giá trị thặng dư (pỏn nhoản quá mạ), tư vấn (pố liếm), chế độ tư hữu (lẹ toóc sli d’ủng), gián điệp (lẳc thắp), tình báo (lặm xa), chính sách (cốc liếm), tỷ lệ (pỉ mạ), cực trị (dỉnh mạ), cực đoan (quá mạ), kinh tế (liếm pỏn), quan niệm (liếm mủng), trạng thái (d’ưởng slì), quy luật (liếm dỉnh), miễn dịch (pỏn chổng), hệ sinh thái (gừa rằng d’ú), tiền đề (khoắc mon), phản xạ (piến tó)… Đó là một số từ Tày mới hoàn toàn, không mượn tiếng Hán, không mượn tiếng Việt, đảm bảo chất Tày thuần khiết trăm phần trăm.
DỰA VÀO SỰ PHÁT TRIỂN NỘI TẠI CỦA TIẾNG TÀY – MÀ TRIỆU LAM CHÂU ĐÃ TÌM RA NHỮNG TỪ MỚI ĐÓ.
Và cuối tháng 11 năm 2012 vừa qua, tôi đã có thêm những giờ phút xuất thần, tìm ra những từ mới thật đắc đạo (theo một số bạn ngươi Tày nói là cực hay). Đó là những từ Tày mới sau đây:

Internet: Gừa vạ (Hệ thống của trời)
Email: T’àng vạ (Đường trời)
Vi tính: Mảy vạ (Chiếc máy của trời)
Mặc định: Toóc chửng (Đóng, nhập vào nó một thuộc tính).

Ta thử hình dung, nếu một cô gái nào đó nói với chàng trai rằng anh hãy gửi lòng mình theo đường trời cho em nhé – thì hẳn là sinh động và hay hơn nhiều so với câu: Anh hãy gửi tâm tình theo thư điện tử cho em nhé.
Câu đầu tiên tuyệt vời hơn, vì nó không có từ Hán việt, nó lồng lộng, thuần khiết chất Việt Nam và lãng mạn hơn câu thứ hai nhiều lắm.

Chính nhờ việc tìm ra tiếp bốn từ Tày mới trên đây, mà trong lòng Triệu Lam Châu nảy ra những vấn đề về tiếng Việt như sau:

Một là: Trong kho tàng tiếng Việt hiện nay, số từ Hán Việt nhiều vô kể, có thể lên đến hơn bảy mươi phần trăm. Ngay cả đến thế kỷ hai mốt rồi, mà tiếng Việt vẫn hời hợt mượn tiếng Hán để biểu hiện cho kỹ thuật vi tính, như: Hiển thị, mặc định, mã hoá, dữ liệu, dữ kiện…
Điều đó cho thấy một tâm lý ăn theo, nô lệ, hời hợt trong lao động tư duy, quen dựa giẫm vào người khác.
Chúng ta đã có tâm lý thiếu tự cường ấy trong sáng tạo ngôn ngữ hàng ngàn năm nay rồi. (Riêng các chính thể Việt Nam từ trước tới nay lại có tính tự cường rất mãnh liệt).

Hai là: Riêng tâm hồn bản thân Triệu Lam Châu, là sản phẩm của ba nền văn hoá Tày – Việt – Nga. Đó là ba bà mẹ văn hoá thiêng liêng của tâm hồn tôi.
Tiếng Việt hiện nay phong phú và hay gấp trăm lần so với tiếng Tày. Đó là sự thật. Và tôi chỉ mong mãi mãi là như vậy thôi. Từ ý tưởng ấy, ba ngày nay tôi lại thấy cần phải cải tổ lại tiếng Việt như gần hoàn toàn, loại bỏ hết những từ Hán việt, nhằm đưa tiếng Việt trở lại trong sáng thuần Việt trăm phần trăm. Và như thế tiếng Việt sẽ đạt tới mức hay toàn bích.
Từ thực tế đề xuất từ ngữ tiếng Tày mới hiện đại của mình, Triệu Lam Châu, mới có cơ sở có những ý tưởng trên đây đối với tiếng Việt. Bởi vì tiếng Việt có một loạt giáo sư tiến sĩ, có hẳn một Viện Ngôn ngữ bề thế, có Hội nhà văn Việt Nam, có Viện Văn học…  và toàn dân Việt sử dụng và nghiên cứu – thì nhất định sẽ tìm ra được những từ thật hay để thay hết những từ Hán việt hiện có.
Nếu không, từ thực tế những từ Tày mà Triệu Lam Châu tìm ra (và các thế hệ con cháu Tày tìm tiếp) – thì tiếng Tày dẫu còn nghèo, nhưng lại trong sáng hơn hẳn tiếng Việt bội phần, vì tiếng Tày mới, không mượn tiếng Hán, không mượn tiếng Việt.
Các nhà ngôn ngữ học nghiên cứu tiếng Việt cần phải đóng vai trò chính trong việc tìm ra từ Việt mới để thay toàn bộ từ Hán việt hiện nay và cần phải làm được điều đó, để mai sau (thế kỷ 25 hay 30) chẳng hạn, mỗi người Việt làu làu vài ba ngoại ngữ - sẽ không hổ thẹn với bạn bè năm châu, sao tiếng Việt mình có nhiều từ gốc Hán thế? Và rồi tôi lại nghĩ những bạn trẻ Trung Quốc mai sau, khi nghiên cứu tiếng Việt, sẽ không còn cái bĩu môi có vẻ xem thường với ý nghĩ rằng: Tiếng Việt có gì đâu, hơn bảy mươi phần trăm số từ mượn tiếng Hán của chúng ta ấy mà? Triệu Lam Châu chạnh lòng nghĩ vậy, mà thấy cay đắng vô cùng!
Ta cần phải thay hết những từ Hán việt bằng từ Việt hoàn toàn – đó là sứ mệnh thiêng liêng, vì nó sẽ góp phần loại trừ  tâm lý ăn theo, nô lệ, hời hợt trong lao động tư duy, quen dựa giẫm vào người khác – trong tâm thức của người Việt Nam ta hôm nay và mai sau. Đó là một vấn đề cực kỳ quan trọng cần phải có trong tâm thức Độc lập tự do của dân tộc Việt Nam ngàn năm văn hiến, thiêng liêng.

Ba là: Với tư cách là một nghệ sĩ và một công dân chân chính, tôi xin kính đề nghị Viện ngôn ngữ học, Viện Văn học… nghiên cứu, đề xuất với chính phủ thành lập Ban nghiên cứu, soạn thảo, đề xuất những từ Việt mới thay toàn bộ từ Việt gốc Hán bằng những từ mới thuần Việt trong kho tàng ngôn ngữ của chúng ta.

Bốn là: Triệu Lam Châu đang hăm hở tìm từ mới thuần chất Tày cho tiếng Tày. Và tôi  tin rằng hẳn sẽ có nhiều bạn bè người Kinh tâm huyết tìm từ mới thuần chất Việt để thay hết những từ Hán việt hiện nay. Nếu nhỡ giờ đây chưa có, mấy chục năm sau sẽ có. Và chắc chắn trăm năm sau sẽ có những  người tâm huyết làm được điều ấy cho ngôn ngữ Việt thiêng liêng của chúng ta đạt mức toàn bích huy hoàng…