Thứ Hai, 4 tháng 5, 2020

Không gian Nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu


PHẦN I. Mở Đầu
Tập thơ “ Gửi hương cho gió” của Xuân Diệu là một trong những tập thơ tiêu biểu nhất, nổi bật nhất của nhà thơ Xuân Diệu. Tập thơ thể hiện một tình yêu đắm say, mãnh liệt và rạo rực, yêu con người, yêu cuộc đời, yêu trần thế… Với cá tính độc đáo và mạnh mẽ, tập thơ này Xuân Diệu đã đem đến góp vào cho thơ Mới một phong cách nghệ thuật thật tiêu biểu, thật nổi bật và cũng thật riêng tư, thật khác biệt. Thơ ông là cả một thế giới nghệ thuật rộn ràng thanh sắc, say đắm tình đời. Không gian nghệ thuật là một bộ phận, một yếu tố hợp thành, là diện mạo của cái thế giới nghệ thuật đó.
Thời gian và không gian đều là những thuộc tính phổ biến, những điều kiện tất yếu, những hình thức tồn tại của thế giới. Cùng tương tự như vậy, trong nghệ thuật, thời gian và không gian nghệ thuật là hình thức nội tại của hình tượng nghệ thuật. Thời gian nghệ thuật và không gian nghệ thuật chịu tác động có ý nghĩa quyết định của quan niệm về thế giới và con người của nhà văn và phong cách sáng tạo của nhà văn. Đồng thời, chúng phản ánh, bộc lộ, thể hiện các đặc trưng của chính cái phong cách đó. Tìm hiểu thời gian và không gian nghệ thuật giúp ta hiểu sâu sắc hơn, từ những góc độ đặc biệt, cá tính của nhà văn và những đặc sắc của thế giới nghệ thuật mà nhà văn đã sáng tạo nên. 
Từ trước đến nay, nói đến thơ Xuân Diệu người ta thường nghĩ ngay đến cảm hứng thời gian, nỗi ám ảnh thời gian, những âu lo, hãi hùng, phiền muộn của nhà thơ trước những bước đi không gì chống lại được của thời gian kéo theo bao nhiêu là tàn phai, úa héo, phôi pha… Có thể nói sự than vãn về sức tàn phá của thời gian là một trong những cảm hứng chủ đạo của thơ Xuân Diệu trước cách mạng tháng Tám.
Qua tập thơ “Gửi hương cho gió”  người đọc sẽ hiểu những đặc điểm nổi bật của không gian nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu.
Từ trước đến nay hầu như chưa có nhiều người nghiên cứu về  không gian và thời gian nghệ thuật trong tập thơ “Gửi hương cho gió”, nên tôi thấy đây là một đề tài mới và hay mà mình có thể thỏa sức nghiên cứu và có thể phát triển lên thành một luận văn nên tôi đã quyết định chọn đề tài này.
PHẦN II. NỘI DUNG 
I. KHÁI NIỆM KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT:
 Con người là một tổng thể của không gian và thời gian nghĩa là: "Nó như một tiểu vũ trụ trong đại vũ trụ, một thế giới trong đại thế giới". Đối với tác phẩm văn học con người xuất hiện với tư cách là trung tâm kiến giải của mọi vấn đề và không gian thời gian nói chung, cũng như không gian nói riêng và yếu tố làm nền để những kiến giải đó được xây dựng và thể hiện một cách hợp lý. Không gian nghệ thuật là mô hình nghệ thuật về cái thế giới mà con người đang sống, đang cảm thấy vị trí, số phận của mình trong đó. Không gian nghệ thuật gắn liền với quan niệm về con người và góp phần biểu hiện cho quan niệm ấy. Theo Từ điển thuật ngữ văn học thì không gian là "hình thức bên trong của hình tượng nghệ thuật, thể hiện tính chỉnh thể của nó". Người nghệ sĩ khi chiếm lĩnh hiện thực cuộc sống bao giờ cũng xuất phát từ một điểm nhìn và một trường nhìn nhất định. Chính yếu tố này sẽ chi phối đến việc cảm thụ không gian của tác giả. Ngoài không gian vật thể, địa lý, còn xuất hiện không gian tâm lý trong văn hoc .
Nhìn chung, không gian nghệ thuật trong tác phẩm văn học có tác dụng mô hình hóa các mối liên hệ của hiên thực cuộc sống như: thời gian, xã hội, đạo đức hoặc mang tính địa điểm, tính phạm vi. Không gian nghệ thuật còn góp phần trong việc thể hiện một cách tích cực hoặc hạn chế những nét tính cách của con người. Ví dụ như trong một không gian thoải mái, tự do con người được vùng vẫy với chính mình, ở đó họ cũng bộc lộ con người thật của mình, cũng như những suy nghĩ, ước mơ hay khát vọng của bản thân. Ngược lại, nếu không gian chi phối họ thì phần nào đó họ phải thay đổi cách sống cho phù hợp, phải điều chính những suy nghĩ cá nhân để thích nghi. Ngôn ngữ không gian nghệ thuật rất đa dạng và nhiều phạm trù: cao - thấp, xa gần, trên - dưới...tuỳ thuộc vào ý đồ của tác giả song mục đích chính là, sử dụng để biểu hiện các phạm vi giá trị phẩm chất của đời sống xã hội, trong đó con người là tâm điểm.
Không gian nghệ thuật cũng như thời gian nghệ thuật là một trong những yếu tố quan trọng của thế giới nghệ thuật. Nó vừa là hình thức tồn tại của hình tượng, vừa là một lĩnh vực quan trọng thể hiện đặc điểm tư duy nghệ thuật và khả năng chiếm lĩnh thế giới của văn học.
Không gian trong thơ được cảm nhận qua con mắt tinh tế và tâm hồn nhạy cảm, sâu sắc của người nghệ sĩ. Những không gian nghệ thuật tô điểm cho thơ vẻ đẹp từ điểm nhìn thẩm mỹ của thi nhân. Nhà thơ Sóng Hồng đã từng nhận xét: "Thơ có khả năng bao quát sâu rộng không gian và thời gian mà nhiều nghệ thuật khác không có ...Thơ  nghệ thuật kỳ diệu của trí tưởng tượng". Như vậy không thể tách hình tượng ra khỏi không gian mà nó tồn tại. Mặt khác đó là phương tiện để tác giả xây dựng thế giới nghệ thuật của mình. Khám phá thế giới nghệ thuật thơ không thể không khai thác không gian nghệ thuật ở phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật của nó. Nó là mấu chốt quan trong giúp người đọc hình dung được người nghệ sĩ đang đứng điểm nhìn nào để đánh giá sự việc. Xét cho cùng nếu không có không gian nghệ thuật thì văn cũng như thơ mất đi một hình thức quan trọng khi xây dựng thế giới nghệ thuật.
II. KHÔNG GIAN TRONG TẬP THƠ “ GỬI HƯƠNG CHO GIÓ” CỦA XUÂN DIỆU:
 1. Một không gian trần thế xinh đẹp đầy sức sống và vô cùng quyến rũ:
 Xuân Diệu là nhà thơ của lòng yêu đời và niềm say mê ân ái. Nếu thời gian trong thơ ông nghiêng về trục hiện tại với ý thức của nhân vật trữ tình là được tồn tại, được sống, được yêu và nếm trải thì không gian trong tập thơ “ Gửi hương cho gió” của ông tất yếu phải là một không gian trần thế tươi đẹp, đầy sức sống với sự quyến rũ ngọt ngào tâm hồn và tinh thần sống của thi nhân. Nhà thơ Thế Lữ, trong lời Tựa cho tập Thơ Thơ của Xuân Diệu, đã có nhận xét khá tinh tế: “Xuân Diệu là một người của đời, một người ở giữa loài người. Lầu thơ của ông xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian” . Đã hơn hai mươi năm Xuân Diệu giã từ chúng ta vào cõi hư vô, nhưng “tấm lòng trần gian” của ông dường như vẫn còn ở lại.
1.1 Không gian trong tập thơ “ Gửi hương cho gió” của Xuân Diệu có thể là không gian tự nhiên, gần gũi với cuộc sống của con người. Trong không gian ấy, những hiện tượng và sự vật chủ yếu là trăng, hoa, cây, lá, vườn, nắng, mưa, mây, gió, sương, những con đường những dòng sông, những dẫy núi và thấp thoáng một ít gương mặt tuổi trẻ xung quanh những câu chuyện tình tự lứa đôi. Cụ thể: chỉ khảo sát 6 bài thơ đầu tiên của tập thơ “Gửi hương cho gió” Xuân Diệu đã dùng đến 21 từ “Trăng” và 3 từ “Nguyệt” 15 từ có liên quan đến hoa lá, cây trái…, trong đó bài “Nguyệt cầm”  chỉ 2 câu thơ đầu tiên tác giả đã 5 lần dùng từ Trăng.
Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh
Trăng thương trăng nhớ hỡi trăng ngần…
                                                              (Nguyệt cầm)
Biết bao hoa đẹp trong rừng thẳm
Đem gửi hương cho gió phụ phàng
Mất một đời thơm trong kẻ núi
Không người du tử đến nhằm hang..
                                                      (Gửi hương cho gió)
Qua đó ta thấy tần số xuất hiện của từ trăng, hoa, gió… trong tập thơ “ Gửi hương cho gió” là dày đặc, điều đó chứng tỏ một điều là không gian Nghệ thuật trong tập thơ “ Gửi hương cho gió” chủ yếu là trăng, hoa, cây, lá, vườn, nắng, mưa, mây, gió, sương, những con đường những dòng sông…
Không gian trần thế trong tập thơ “ Gửi hương cho gió” của Xuân Diệu là sự đối lập hoàn toàn với thế giới hư ảo thiên đường và địa ngục. Xuân Diệu đã tự tay xây dựng lấy phần không gian của mình sao cho thật vui tươi chan hoà. Nó là thế giới kỳ diệu của thiên nhiên với những " Gửi hương cho gió", những đêm trăng " huyền diệu " những " sương mờ ", có thể nói đây mới thực sự là thiên đường của Xuân Diệu :
Ngày trong lắm lá em hoa đẹp quá
Nhan sắc ơi cây cỏ chói đầy sao;
Tháng giêng cười không e lệ chút nào
Bằng trăm cánh của bướm chim rối rắm…
Tôi tư thấy lạc loài trong nắng mới
Mở miệng vàng…và hãy nói yêu tôi…
                                                           (Mời yêu)
Bất cứ bài thơ tình nào của Xuân Diệu cũng mang theo âm hưởng của cuộc đời. Thơ tình của Xuân Diệu vừa bộc lộ những khát khao lành mạnh của nhịp sống trần thế vừa hết sức thanh tao mơ mộng.Từ khung cảnh không gianthấm đẫm hương tình, nơi gặp gỡ của những tình cảm yêu đời, yêu người tha thiết, nơi con người với những cung bậc yêu thương như “bóng ân ái”, “ môi giao hoà “, “yêu”, “hẹn hò”, “tương tư”... Xuân Diệu đã không cam lòng để cho ngày tháng trôi qua trong mỏi mòn vô vị. Dường như đây mới là thiên đường thực sự trong thơ ông
Tay ân ái như những làn thân thể
Đã ôm đời vào ngực để mơn ru
Thu biếc tỏ hè nâu, thơm vị quế
Xuân như đàn, đông cũng quyện đường tơ
(Tình mai sau).
1.2. Không gian nghệ thuật trong tập thơ “Gửi hương cho gió” của Xuân Diệu tràn ngập âm sắc quyến rũ của trần gian, phản chiếu một cách sinh động nỗi đam mê lớn lao đối với cuộc đời và khát vọng sống mãnh liệt của thi sĩ. Một trong những không gian tiêu biểu của tập thơ “ Gửi hương cho gió” của Xuân Diệu là không gian vườn trăng . Vườn ở đây có thể là một không gian trừu tượng của trần thế, đối lập với cõi âm tăm tối, cũng có thể là không gian tượng trưng không gian tâm hồn của nhân vật trữ tình. Thơ Xuân Diệu là "vườn mơn trớn", ca ngợi tình yêu bằng muôn sắc điệu, âm thanh và hương vị. Có khi không gian vườn ấy lại được mô tả lung linh dưới ánh nắng lung linh rực rỡ với “Tóc liễu buông xanh quá mỹ miều – Bên màu hoa mới thắm như kêu”; “Son sẻ trời như mười sáu tuổi – Má hồng phơn phớt mắt long lanh”. Và hàng loạt các hình ảnh rực rỡ dưới cái nắng nơi khu vườn trần thế ấy được phát sáng càng khơi dậy ở nhà thơ khát vọng sống và khát vọng tận hưởng cho no nê, cho đã đầy thỏa cơn khát thèm. Nhưng cũng vẫn khu vườn ấy khi đêm về, nó lại được tắm mình dưới ánh trăng tạo nên một không gian ghép vườn – trăng độc đáo Trong vườn đêm ấy nhiều trăng quá . Ánh sáng tuôn đầy các lối đi Tôi với người yêu qua nhẹ nhẹ... Im lìm, không dám nói năng chi. (Trăng) Thi sĩ như lạc vào một khu vườn kì ảo, ngập tràn trong ánh trăng. Trăng đẹp quá! Ánh trăng như đang luồn qua từng cành cây, kẽ lá, “ tuôn đầy các lối đi”. Đúng là chỉ có Xuân Diệu mới cảm nhận trăng như thế. Ánh sáng mà “tuôn” như dòng nước vậy sao? Kì lạ thật. Có phải ánh trăng đang tuôn chảy hay chính lòng thi sĩ đang tuôn trào cảm xúc trước đêm trăng? Có thể lắm chứ. Trước đêm trăng đẹp như thế, thơ mộng như thế lòng ai có thể chai lì, vô cảm nhất lại là hồn thơ Xuân Diệu. Suốt hai tập thơ, Xuân Diệu chưa một lần miêu tả những khu vườn ấy trong đêm đen kịt. Diều đó cũng chứng tỏ rằng cảm nhận của Xuân Diệu luôn hướng về ánh sáng. Thông minh hơn ông không chỉ dừng lại ở cách miêu tả khu vườn bằng thị giác với màu sắc và đường nét mà ông đã kết hợp hài hòa nó với âm thanh và hương vị để khiến cho không gian đó trở nên lung linh và mang hơi thở của sự sống. Bâng khuâng chân tiếc giậm lên vàng Tôi sợ đường trăng tiếng dậy vang, Ngơ ngác hoa duyên còn núp lá Và làm sai lỡ nhịp trăng đang. Trong Nhị hồ ta cũng bắt gặp tương tự Cây cỏ bình yên; khuya tĩnh mịch Bỗng đâu lên khúc Lạc âm thiều ... Nhị hồ để bốc niềm cô tịch, Không khóc, nhưng mà buồn hiu hiu Cũng có lúc không chỉ dừng ở đó, không gian ấy còn được tổ chức theo hình thức hài hòa từ cao - thấp, từ bầu trời - mặt đất Một tối bầu trời đắm sắc mây, Cây tìm nghiêng xuống cánh hoa gầy. Hoa nghiêng xuống cỏ , trong khi cỏ Nghiêng xuống làn rêu , một tối đầy. (Với bàn tay ấy) Xuân Diệu cũng đặc biêt chú ý tới gió khi mô tả không gian đêm với gió du dương, gió đượm buồn, gió đào thỏ thẻ...Có lúc gió như một sợi dây nối liền bầu trời mặt đất, nhiều khi gió hiện lên như một trang phong lưu trong câu chuyện sự tích về các loài hoa để cả khu vườn trở thành nơi tình tự, “trăng gió” của các loài hoa trong khu vườn ấy Gió canh khuya hay nghìn ngón tay ôm Trăng mối lái phủ màng tơ mơ mộng Không gian trong thơ Xuân Diệu từ “vườn” tới “vườn trăng” và “ gió” và “trăng”, từ không gian cụ thể, xác định, tới không gian trừu tượng. Nhà thơ cất cánh nàng thơ phiêu du theo gió trăng với bầu trời nhưng rồi điểm dừng an toàn của hồn thơ ấy vẫn quay trở về với chốn “vườn trần” như một nơi trú ngụ an toàn Gió nọ mà baylên lên nguyệt kia, Thêm đêm sương lạnh xuống đầm đìạ Ngẩng đầu ngắm mãi chưa xong nhớ, Hoa bưởi thơm rồi : đêm đã khuya. (Buồn trăng)
1.3. Không gian nghệ thuật trong tập thơ gửi hương cho gió của Xuân Diệu là một không gian " vừa tầm tay với của con người". Trong cái không gian ấy, tất cả đều đáng yêu, tươi tắn, gần gũi và thân thiện. Đó là một không gian cho con người. Cùng với không gian “vườn” thì trong thơ Xuân Diệu còn có không gian của “con đường” là một trong những sự hóa thân của không gian trần thế chứa đựng nhiều ẩn ý. Con đường trước hết phải là một không gian cụ thể, nhưng đồng thời đó cũng mang nghĩa của con đường đời hay con đường tình. Con đường ấy lúc đông, lúc vắng, lúc lại tấp nập, vui vẻ, huyên náo, khi lại vắng lặng thưa thớt. Khi vui thì con đường đó trở thành không gian đám đông, mang tâm trang vui vầy và giữa dòng đời hối hả “Tôi dạo thanh bình giữa phố đông - Một luồng ánh sáng xô qua mặt -Thắm cả đường đi, rực cả đời” (Tình qua) Còn khi tâm trạng buồn thì con đường đó lại là không gian sở hữu của cá nhân cái tôi trữ tình: “Tôi là một kẻ làm thơ thẩn – Cúi nhặt thơ rơi giữa sỏi đường” hay “Cuộc đời cũng đìu hiu như dặm khách – Mà tình yêu là quán trọ bên đường”. Nét quen thuộc của không gian con đường trong thơ Xuân Diệu, đó là những con đường quê với tâm trạng nhớ nhung cùng những hồi ức đậm nhạt với các bài thơ như :Ngã ba, Buổi chiều... Đôi khi con đường quê ấy lại trở thành cô đơn trống trải của sự hoang vắng khi nó bắt gặp tâm trạng buồn, cô đơn của thi nhân “Cảnh thưa thớt chỉ một con đường vắng” hay “Những đêm đông dạt bước ở trên đường” để rồi ở một khoảnh khắc nào đó thi nhân nhận thấy mình như “Khách lữ hành mệt mỏi nỗi đường xa”. Ấn tượng hơn với không gian con đường trong thơ Xuân Diệu đó dường như là sự xuất hiện của con đường với nghĩa là con đường tình yêu. Con đường nho nhỏ gió xiêu xiêu, Lả lả cành hoang nắng trở chiều. Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn, Lần đầu rung động nỗi thương yêu. (Thơ duyên) Có lẽ nào "con đường nhỏ nhỏ" ở đây là con đường tình! - "lả lả cành hoang" là sự lơi lả tình tứ. Con đường như dụi đầu vào gió, cành hoang ngả mình vào nắng. Tác giả lạc bước vào vương quốc của tình yêu nên nhận ra một biến đổi kỳ diệu vừa diễn ra trong trời đất. Tiêu biểu cho sự bày tỏ tình yêu – sự sống bằng cảm quan hết sức tinh nhạy và vi tế của hồn thơ Xuân Diệu, con đường ấy mang theo cái tài hoa, bay bướm của “ chàng hoàng tử” của thơ mới. Trong thơ Xuân Diệu, con đường cũng là không gian của những tình cảm chớm nở đầu đời của những trái tim non tuổi học trò (Thơ duyên, Lưu học sinh), là nơi sinh tụ tình cảm yêu thương nhung nhớ (Gặp gỡ). Lúc gặp gỡ con đường bừng lên sắc vui tươi háo hức(Rạo rực, Xuân không mùa), khi chia ly thì con đường cũng lại đầy lưu luyến (Tình qua). Có nghĩa là không gian của những con đường tình yêu ấy mang đậm dấu án xúc cảm của cái tôi trữ tình. Đó chính là không gian của cái tôi cá nhân. 2.Thơ Xuân Diệu - một không gian tình ái Thơ Xuân Diệu nổi bật với cái tôi trữ tình khát khao giao cảm với đời. Có lẽ vì thế mà cái tôi trữ tình ấy luôn gắn với không gian là nơi đón nhận và giao cảm với tình yêu, với thiên nhiên vạn vật và với cuộc sống của “nhà, căn phòng” hay là “quán”. “Đây là quán tha hồ muôn khách đến”. 
Trong không gian của căn phòng, nhà thường xuất hiện hình ảnh của nhân vật trữ tình giữa không gian trống trải: Buổi chiều ra cửa sổ Bóng chụp cả trời tôi Ôm mặt khóc rưng rức Ra đi là hết rồi (Viễn khách) Đôi khi, xuất hiện nhân vật thứ hai và căn phòng ấy lập tức lại trở thành nơi tình tự với những giận hờn, những âu yếm trong (Xa cách), những lời mời mọc ân ái trong Lời kĩ nữ Khách ngồi lại cùng em trong chốc nữa; Vội vàng chi, trăng sáng quá, khách ơi. Đêm nay rằm: yến tiệc sáng trên trời; Khách không ở, lòng em cô độc quá. Khách ngồi lại cùng em ! Đây gối lả, Tay em đây mời khách ngả đầu say; Đây rượu nồng. Và hồn của em đây, Em cung kính đặt dưới chân hoàng tử. Có một điều tưởng chừng như một sự mâu thuẫn giữa độ ấm nóng của những không gian trong thơ Xuân Diệu: không gian trần thế mênh mông, rộng lớn thì lại ấm cũng còn không gian hẹp của cái tôi cá nhân thì lại thường lạnh lẽo vô cùng. Ta có thể thấy điều đó qua hàng loạt các bài thơ: Tương tư chiều, Viễn khách, Riêng tây, Xa cách... Điều đó minh chứng cho nhận xét rằng Thơ mới càng đi sâu vào cái tôi cá nhân thì càng thấy lạnh. Trong tình ái, cũng giống như khuynh hướng chung của thơ mới, Thơ Xuân Diệu mang theo một cảm thức, một ám ảnh về sự chia phôi. Cảm thức về sự li biệt, xa xôi cách chở đã đưa Xuân Diệu tìm đến với không gian của sông đê chuyên chở những tâm tư, một khồng gian của sự chia ly, tiễn biết “Khắp núi sông vẫn than thầm tiễn biệt”. Cũng vẫn cảm thức ấy, dòng sông trong thơ Xuân Diệu mang trong mình đặc điểm của một không gian rời rạc, hững hờ Cũng xa như bờ xa cách Không có thuyền qua, không cánh bay (Bên ấy, bên này) Người giai nhân bến đợi dưới cây già Tình du khách: thuyền qua không buộc chặt (Lời kỹ nữ) Để không gian tình ái thêm tính biểu đạt, Xuân Diệu còn tạo thêm không gian của nắng, của sương. Nắng là một không gian tầm trung, không có hình thù nhưng độ lan tỏa của nó rộng lớn. Không phải ngẫu nhiên trong thơ Xuân Diệu thấy xuất hiện rất ít những không gian của mưa trong khi nắng chiếm tới phần lớn. Tùy vào sắc thái tâm trạng mà nắng của thi nhân có những sắc độ khác nhau: nắng vàng,nắng rọi, nắng xôn xao...Và cũng khác Hàn Mặc Tử, khác cái nắng thẳng đứng cảu “Nắng xuống, trời lên sâu chót vót” của Huy Cận, cái nắng trong thơ Xuân Diệu là một sự lan tỏa, xâm chiếm nhẹ nhàng với một tâm trạng vu vơ của kẻ mới vào đời, là xao động êm ái đẻ “Nó chiếm hồ ta bằng nắng nhạt”, đôi khi nắng trở thành nguyên nhân của những nỗi buồn vô cớ “Hôm nay trời nhẹ lên cao – Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Qua không gian nắng nhà thơ đã gửi gắm được nhiều những trạng thái tinh vi, phức tạp của thế giới nội tâm và tạo ra một sự hài hòa giữa tâm cảnh và ngoại cảnh. Dung hòa giữa không gian nắng và mưa là một không gian sương tuy không có hình hài cụ thể, một không giain mờ ảo nhưng nó lại là hệ sinh thái nuôn dưỡng tâm trạng của thi nhân. Tỉ lệ của không gian sương trong hai tập thơ khá cao. Riêng đối với tập Gửi hương cho gió thgì không gian sương chiếm tỉ lệ gấp ba lần so với Thơ thơ cho thấy càng về sau tâm hồn thi nhân càng có nhiều cảm xúc. nhiều uẩn khúc nên về sau không gian sương trở thành nỗi vương vấn, sàu muộn. Đặc biệt ông có riêng một bài thơ viết về sương. Cũng có thể thi nhân muốn từ thực trạng của thiên nhiên để nói lên cái mù mịt của cuộc đời trần thế của con người Những sao cũ chưa nắng bừng trở lại Những đêm trăng đi mãi biết ngừng đâu? Sương lan mờ và hồn tôi nghe đau ( Sương mờ) Càng đến gần giờ chót của một ngày tàn. Xuân Diệu càng thấy lòng càng buốt giá. Những câu thơ viết về sương lúc đêm khuya của ông thường rất lạnh: “Sương bạc làm thinh, khuya nín thở Nghe sầu âm nhạc đến sao khuê” (Nguyệt Cầm) Thực chất sự vay mượn không gian sương hay nắng từ thiên nhiên để bộc lộ tâm trạng và biến nó thành những không gian riêng mang đặc trưng thi pháp, sự sáng tạo của thi nhân đều phục vụ cho sự nổi bật của một tâm trạng đa chiều. Từ đó cho thấy không gian thơ Xuân Diệu là một không gian của tình ái.
2. Không gian nghệ thuật trong tâp thơ  “ Gửi hương cho gió” của Xuân Diệu bị ám ảnh bởi sự tàn phá của thời gian và là không gian của cái tôi trữ tình. Xuân Diệu thường mượn không gian mây, nước, thuyền những không gian chuyển động nhưng bị gò bó theo khuôn triết lí, chịu sự ám ảnh của sự tàn phá của thời gian.Có lúc không gian ấy được miêu tả là không gian thơ mộng của thiên nhiên, những thực thể không gian vận động. Chúng chịu sự chi phối, sự tàn phá của bước đi thời gian. Có lúc chúng trở thành không gian trừu tượng, một không gian so sánh, ví von kiểu “Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây”. Thông qua không gian “nước” và “thuyền” nhà thơ nói lên sự nhận thức rõ ràng nhịp điệu trôi chảy của thời gian. Không - thời gian trong thế giới vũ trụ thì vĩnh cửu, còn thời gian đời người là hữu hạn. Con người bất lực hoàn toàn trước sức mạnh của thời gian vũ trụ và luôn có nguy cơ bị cuốn trôi hoặc bị nhấn chìm, bài: “thời gian” là tiêu biểu . “Dưới thuyền nước trôi Trên nước thuyên chuồi Và nước, và thuyền Xuôi dòng đi xuôi” “Nước cũng mất luôn Nhưng nước còn nguồn Thuyền chìm trong lúc Đêm ngày nước tuôn” Bài “Đi thuyền” nhà thơ cũng vẫn mượn hai không gian ấy: “Thuyền qua mà nước cũng trôi Lại thêm mây bạc trên trời cũng bay Tôi đi trên chiếc thuyền này. Dòng mơ tôi tưởng cũng thay khác rồi” Với cách mượn không gian nước để nói đến dòng chảy của thời gian là quá quen thuộc, thơ ca từ xưa đến nay nói đến điều đó không ít. Xuân Diệu với cách nghĩ, cách nhìn của một nhà thơ mới, thì thời gian còn gấp rút hơn rất nhiều: “Cái bay không đợi cái trôi Từ tôi phút trước sang tôi phút này” Nói lên sự nhạy cảm vô cùng trước sự thay đổi của thời gian, sự thay đổi không còn là năm là tháng là ngày nữa mà sự thay đổi diễn ra trong từng phút một, cái “tôi” của phút trước đã khác với cái “tôi” của phút này. Không gian chịu của sự tàn phá ghê gớm của sức mạnh thời gian. Ngoài ra trong thơ Xuân Diệu ta còn bắt gặp không gian trùngcủa bến- thuyền để làm tăng sự đa dạng của mảng thời gian nhỏ bé “Tôi như chiếc thuyền hư không bến đỗ”. Cái tôi trong thơ Xuân Diệu cũng là một lãnh địa riêng, một phạm trù không gian đáng kể với những chiều kích cao thấp, rộng hẹp khác nhau. Cái tôi ấy khi soi mình trước không gian bao la của vũ trụ, trong dòng chuyển không ngừng của thời gian, bản ngã cá nhân ý thức được một cách sâu sắc về sự cô đơn lẻ loi của mình, đẩy cái tôi lên ngang tầm cao vũ trụ “Ta lên cao như một ý siêu phàm”, không gian mà cái tôi ấy hòa mình vào đó là không gian của núi để ở đó nhà thơ thâqý mình “Tôi là một con chim đến từ núi lạ”. Không gian núi trong thơ ông thường mang một dáng hình cụ thể và ở đó cái tôi trữ tình thường được soi bóng giữa thời gian tuần hoàn một cách cô đơn, lạc lõng, xa mờ Núi tận chân trời đứng nghĩ xa. Gió đều trang trải nguyệt bao la; Êm êm núi biếc xinh như ngọc Và cũng buồn như nỗi nhớ nhà. ..... - Lẫn với đời quay, tôi cứ đi, Người ngoài không thấu giữa lòng si. Cũng như xa quá nên ta chỉ Thấy núi yên như một miếng bìa. (Núi xa) Cũng có lúc nó biến thành không gian của một “Vạn Lý trường thành” ngăn chia hai vũ trụ của anh và em. Sự cô đơn của cái tôi, Xuân Diệu tạo thêm một không gian phụ khác là “Hồn tôi - chiếc đảo” mà nhà thơ tự nhận “ Chiếc đảo hồn tôi rộn bốn bề”.Rồi để chuyển tải ý tưởng cho một tình yêu Gửi hương cho gió, Xuân Diệu gửi hồn mình vào không gian rừng Biết bao hoa đẹp trong rừng thẳm Đem gửi hương cho gió phụ phàng Mất một đời thơm trong kẽ núi Không người du tử đến nhằm hang Cũng bởi cái tôi khát khao giao cảm với đời, ấp ủ nhiều ước vọng nên không có gì lạ khi nhà thơ thể hiện trong thơ mình một không gian lớn của cái tôi cá nhân, không giankhát vọng, ôm chứa những hành động của tâm hồn, được mở rộng cả ở chiều rộng lẫn chiều ca. Lòng rộng quá chẳng chịu khung nào hết Chân tự do đạp phăng cả hàng rào Ta mang hồn trèo lên những đỉnh cao (Mênh mông) Ta bá cổ những con rồng gió lớn Không gian đâu, thuyền ta vượt trùng dương ... Mái chèo đập mau ta thoát ngoài ta Chín con rồng! Nỗi gió để buồm xa (Sầu). Thế giới không gian nghệ thuật của thơ Xuân Diệu là một thế giới vũ trụ với nhiều tầng, nhiều mảng với những hình khối khác nhau. Đặc điểm về không gian đã chi phối trực tiếp đến bút pháp tạo hình và toàn hệ thống hình ảnh thơ tạo nên một phong cách riêng biệt, khắc sâu ấn tượng về một cái tôi trữ tình độc đáo giữa làngThơ mới Việt Nam.
KẾT LUẬN 
Nghiên cứu về Xuân Diệu có nghĩa là nghiên cứu về một hiện tượng nghệ thuật điển hình trong phong trào thơ mới, thơ ca tiêu biểu cho thế hệ thi nhân 1932 -1945 ở hai thời kì trước và sau CMT8. Xuân Diệu đã từng nói rằng: “Thơ mới là một trong các hiện tượng dân tộc, nó đã đóng góp vào “văn mạch dân tộc”….Trong phần tốt của nó, thơ mới có một lòng yêu đời, yêu thiên nhiên, đất nước, yêu tiếng nói dân tộc. Thơ mới là một tiếng hát đau khổ, không chia vui ở cái xã hội ngang trái, vùi dập đương thời”. Và ở giai đoạn đầu với hai tập Thơ thơ (1938) và Gửi hương cho gió (1945) Xuân Diệu được coi là gương mặt tiêu biểu trong trào lưu thơ ca lãng mạn, mà nói như Nguyễn Hoành Khung thì là “nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới”. Với tư tưởng tiến bộ, Xuân Diệu đại diện cho thế hệ trẻ cấp tiến. Yêu và sống hết mình, dám bày tỏ quan điểm suy nghĩ tình cảm của “cái tôi” cá nhân. Muốn giải phóng từ bỏ cái quan niệm cổ hữu của thơ xưa, với một ý thức cá nhân sâu sắc, đến với thơ Xuân Diệu ở giai đoạn này, ta bắt gặp một anh chàng thi sĩ bồng bột biết bao trước cuộc sống, yêu cuộc sống thiết tha đến sống vội vàng cuống quýt để tận hưởng cho hết hương hoa cuộc đời, một chàng trai trẻ yêu vội vàng mà cũng rất cuồng si, yêu vội mà mãnh liệt, biết quí trọng từng thời khắc của tuổi trẻ. Xuân Diệu đã mang đến cho thi đàn Việt Nam những năm 30 một nguồn cảm hứng tình yêu rào rạt, một luồng rung động mới mẻ trước tình yêu, một nhịp sống mới với một “cái tôi” giàu màu sắc, hình tượng. Về hình thức, Xuân Diệu đã tạo ra một bước mới trong lĩnh vực thơ ca, thơ của ông với kiểu cấu trúc hiện đại, mới mẻ tạo nên một sự đột phá trong phong trào thơ mới. Trong đó yếu tố không - thời gian trong 
thơ Xuân Diệu đã để lại cho ta những ấn tượng sâu sắc về tấm lòng gắn bó, thiết tha giao cảm với đời, hiểu thêm về một tấm lòng của chàng kỵ sĩ thơ Xuân Diệu. Đến với Xuân Diệu ta sẽ thấy “Xuân Diệu là ngòi bút chiến đấu, không ngừng chiến đấu, chiến đấu rất tích cực cả về chính trị và văn chương, cả về tiểu luận phê bình và thơ ca.Bút lực của anh thật là mạnh mẽ, phong phú uyển chuyển dù không phải lúc nào cũng chân xác. Nhưng các bạn đọc quý anh, trong anh nhà thơ có tài năng đi từ thế giới cũ đến thế giới mới, đi từ sáng tạo này đến sáng tạo khác, tinh thông văn học trong nước và thế giới, một người có công trong văn học mới. Một người đáng bật thầy cho các thế hệ nhà thơ trẻ”. Với hơn nửa thế kỷ hành trình sáng tạo, từ một nhà thơ lãng mạn trở thành một nhà thơ cách mạng, Xuân Diệu đã để lại trong kho tàn văn học dân tộc một di sản lớn. Ông có đóng góp lớn trong nhiều lĩnh vực và đều đặn ở nhiều thời điểm lịch sử khác nhau (Trước CMT8: trongthời kỳ kháng chiến, sau hòa bình; thời kỳ đấu tranh thống nhất sau ngày miền Nam giải phóng…). Thế nên vị trí của Xuân Diệu trên thi đàn văn học dân tộc Việt Nam sẽ là không nhỏ. 



MỘT SỐ QUAN NIỆM THỜI GIAN VÀ QUAN NIỆM CỦA XUÂN DIỆU VỀ THỜI GIAN TRONG THƠ CỦA ÔNG TRƯỚC CMT8



2.1 Một số quan niệm về thời gian
Nói đến thời gian, ai cũng cho nó là một vấn đề khó hiểu. Ngay từ thời xưa đã có nhiều nhà khoa học, nhà tư tưởng tìm cách hiểu về thời gian. Có người cho là thời gian giống như cái đồng hồ, có người lại cho rằng thời gian không thể nào nắm bắt được. Và cũng từ những thắc mắc đó, từ lâu đã hình thành nhiều khái niệm, quan niệm khác nhau về thời gian.

Theo Newton thì: thời gian là độc nhất, tuyệt đối, và có giá trị phổ quát khắp mọi nơi, còn đối với Eintstein thì cho rằng: thời gian trôi đi chỉ là ảo ảnh mọi khác biệt giữa quá khứ, hiện tại, tương lai chỉ là những ảo ảnh dai dẳng mà thôi.

Theo tạp chí "Tia sáng" có trích một số quan niệm về thời gian như sau:

“Thời gian" là gì ?

Đối với nhà vật lý (thông thường), thời gian là cái mà một đồng hồ chính xác đo được. Với nhà toán học đó là cái không gian một chiều được xem là liên tục, nhưng có thể được chia thành các “thời khắc” giống như từng tấm ảnh của một cuộn phim. Với số đông thời gian là cái luôn trôi từ quá khứ qua hiện tại để tới tương lai. Trong thuyết tương đối, thời gian là chiều thứ tư của vũ trụ, nhưng điều đó không có nghĩa nó đồng nhất với ba chiều không gian, vì công thức tính khoảng cách không thời gian khác công thức tính khoảng cách không gian.

Sự phân biệt không gian và thời gian là bệ đỡ cho quan hệ nhân quả, vốn có vai trò thiết yếu trong vận hành vũ trụ. Tuy nhiên, một số nhà vật lý tin rằng, ở thang bậc planch (10 – 33 cm và 10 – 43 giây), là thang bậc nhỏ nhất có ý nghĩa vật lý, có thể không gian và thời gian không còn chia tách với nhau”.

Trên đây là một số quan niệm của các nhà khoa học và nó cũng cho ta thấy được về sự đa dạng trong việc cảm thức thời gian một con người.

Ngoài ra, trong một số cuốn từ điển lại có cách nói khác về thời gian: “thời gian" hình thức tồn tại cơ bản của vật chất diễn biến một chiều theo ba trạng thái là hiện tại, quá khứ và tương lai”.

Còn đối với các giáo sư, nhà khoa học thời nay lại có những quan niệm khác về thời gian. Theo giáo sư Trịnh Xuân Thuận – một nhà vật lý thiên văn học nổi tiếng người Việt quốc tịch Mỹ đã nói rằng: “các vấn đề về thới gian và phương hướng vận động của nó còn lâu mới được giải quyết và còn bị bao bọc trong môt màn sương mù dày đặc” . Không dừng lại ở đó giáo sư còn cho rằng thời gian là một khái niệm không phải để ta nắm bắt và thời gian thường có 2 loại là thời gian tâm lý và vật lý. Thời gian tâm lý là thời gian chủ quan và thời gian vật lý là thời gian khách quan, không phụ thuộc vào ý thức con người, nó là thời gian đồng hồ.

Trong bài viết của Minh Chi đã dẫn lời của thầy Matthieu đã nói: “thời gian chỉ là một điều kiện chủ quan của nhận thức trực cảm của chúng ta, nó không tồn tại ở ngoài chủ thể”.

Như vậy thời gian là một khái niệm khó định nghĩa, khó hiểu và việc cảm thức nó lại càng khó hơn. Trong triết lý nhà phật thì cho rằng thời gian không phải là một thực tại cứu kính, nó không tồn tại tách biệt hiện tượng và người quan sát, họ cũng thừa nhận tính ảo ảnh của thời gian. Thời gian qua đi rất mau, nó còn nhanh hơn mũi tên bị bắn khỏi cung và cũng chính thế đối với phật tử thời gian là cái duy nhất và không nên để lãng phí nó.

Có thể nói thời gian là vấn đề luôn luôn được tìm hiểu trong mọi thời kỳ, từ quá khứ đến hiện tại và còn đến tương lai. Nó là vấn đề làm cho nhiều lĩnh vực khác phải quan tâm và trong số đó có cả lĩnh vực văn học nghệ thuật.

2.2 Quan niệm của Xuân Diệu về thời gian
Trong văn chương nghệ thuật, viết về thời gian cũng vận động trên cả ba chiều: quá khứ, hiện tại, tương lai. Tuy nhiên văn chương không gò bó cách thức thể hiện quan điểm về thời gian mà nó có thể được đảo lộn trình tự hoặc cũng có thể bỏ qua một hoặc hai trong ba chiều vận động vốn có của nó. Có nhiều cách thức thể hiện thời gian khác nhau, tác phẩm nghệ thuật xuất phát từ một mốc thời gian nhất định trong thời gian. Từ đó có thể làm ngưng lại một khoảnh khắc của dòng đời dài đằng đẵng mà cũng có thể dồn nén một quãng thời gian hàng chục năm, hàng trăm năm vào một thời khắc.

Với bàn tay của người nghệ sĩ, thời gian không còn theo chiều vận động vốn dĩ của nó mà đã được đưa vào cái nhìn, suy nghĩ chủ quan của người nghệ sĩ, và trong thơ ca, quan điểm về thời gian của người nghệ sĩ gắn liền với nguồn cảm hứng sáng tạo của thi nhân bởi hình tượng thơ và hình tượng cảm xúc. Sự cảm thụ thời gian trong thơ chính là mối rung động của nhà thơ trước cuộc đời và ý nghĩa chung của đời sống nhân sinh. Nhà thơ càng nặng cõi đời thì sự quan tâm trước mọi thời khắc càng trở nên mãnh liệt. Quan niệm về thời gian đã là vấn đề được lưu tâm từ xưa, thơ xưa không ít bài than thở về sự hữu hạn của thời gian, về một kiếp người. Cổ nhân từng coi đời người trôi qua nhanh chẳng khác gì bóng ngựa qua cửa sổ.

Thế nhưng, cố nhân không vì thế mà hoang mang hoảng hốt, họ quan niệm vũ trụ tuần hoàn, thời gian quay tròn trở lại và con người là một phần tư của vũ trụ sẽ hoà nhập vào cái vĩnh hằng của trời đất. Trước Xuân Diệu, cũng không ít thi sĩ nhắc đến thời gian trong thơ ca của mình, với đại thi hào Nguyễn Du thì:

“Sầu đông càng lắc càng đầy
Sen tàn cúc lại nở hoa
Sầu dài, ngày ngắn, đông đà sang xuân”

Nguyễn Công Trứ:

“Nhân sinh ba vạn sáu nghìn thôi
Vạn sáu chơi nhăng đã hết rồi”

Còn Tản Đà thì :

“Đời người thử ngẫm mà hay
Trăm năm là ngắn, một ngày dài hơn”

Đến Xuân Diệu và thế hệ thơ mới thì thời gian là một đi không trở lại, vũ trụ là khách thể độc lập với con người. Và với Xuân Diệu, thời gian không còn tính theo chiều vĩ mô: một đời, nghìn năm, vạn năm, thiên thu… như trong thơ cổ mà với sự thức tỉnh ý thức cá nhân sâu sắc, nhà thơ cảm nhận rõ hơn ai hết sự thật đáng buồn “tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”, cho dù mùa xuân của đất trời vẫn cứ tuần hoàn, vũ trụ có thể vĩnh hằng.

Những luồng tư tưởng phương tây đưa lại giúp Xuân Diệu nhận ra cái giới hạn của đời sống cá nhân. Đời người thì ngắn ngủi mà khát vọng lại vô cùng. Vì vậy phải mau mau chiếm đoạt hương hoa cuộc đời. Giới hạn cuộc đời nằm trong vòng tuổi trẻ, giới hạn của tình yêu nằm trong vòng khoảnh khắc. Thơ Xuân Diệu ghi lại rất nhiều khoảnh khắc cuộc đời, khoảnh khắc của tình yêu, của tuổi trẻ. Trong các nhà thơ thời bấy giờ, có lẽ Xuân Diệu là nhà thơ đã dành nhiều sáng tác của mình nhất vào vấn đề thời gian, đồng thời qua đó khái quát lên thành những ý nghĩa về nhân sinh, về cuộc sống.

Những bài thơ viết về thời gian của Xuân Diệu thì nhiều như: Đi thuyền, Thời gian, Giờ tàn, Chiếc lá, Vì sao, Giã từ thân thể, Vội vàng, Giục giã, Hết ngày hết tháng… đều thể hiện những quan điểm cá nhân của nhà thơ về thời gian, dòng thời gian hay cũng là dòng đời luôn luôn chuyển động, thay đổi không ngừng. Bài “Thời gian” có thể coi là sự phát ngôn đầy đủ cho sự cảm nhận về thời gian của nhà thơ:

“Dưới thuyền nước trôi
Trên nước thuyên chuồi
Và nước, và thuyền
Xuôi dòng đi xuôi”

Thông qua hình tượng “nước” và “thuyền” nhà thơ nói lên sự nhận thức rõ ràng nhịp điệu trôi chảy của thời gian. Thời gian trong thế giới vũ trụ thì vĩnh cửu, còn thời gian đời người là hữu hạn. Con người bất lực hoàn toàn trước sức mạnh của thời gian vũ trụ và luôn có nguy cơ bị cuốn trôi hoặc bị nhấn chìm, bài: “thời gian” là tiêu biểu cho ý trên:

“Nước cũng mất luôn
Nhưng nước còn nguồn
Thuyền chìm trong lúc
Đêm ngày nước tuôn”

Bài “Đi thyền” nhà thơ cũng vẫn mượn hai hình ảnh ấy:

“Thuyền qua mà nước cũng trôi
Lại thêm mây bạc trên trời cũng bay
Tôi đi trên chiếc thuyền này
Dòng mơ tô tưởng cũng thay khác rồi”

Với cách mượn dòng chảy cảu nước để nói đến dòng chảy của thời gian là quá quen thuộc, thơ ca từ xưa đến nay nói đến điều đó không ít. Xuân Diệu với cách nghĩ, cách nhìn của một nhà thơ mới, thì thời gian còn gấp rút hơn rất nhiều:

“Cái bay không đợi cái trôi
Từ tôi phút trước sang tôi phút này”

Nói lên sự nhạy cảm vô cùng trước sự thay đổi của thời gian, sự thay đổi không còn là năm là tháng là ngày nữa mà sự thay đổi diễn ra trong từng phút một, cái “tôi” của phút trước đã khác với cái “tôi” của phút này. Chính vì ý thức rõ rệt được từng sự biến chuyển của thời gian nên Xuân Diệu đã sống vội vàng, sống cuống quýt để tận hưởng cuộc sống, trong “vội vàng”:

“Tôi sung sướng nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”

Rồi đến bài “Giục giã” thì:

“Mau với chứ, vội vàng lên với chứ
Em, em ơi, tình non đã già rồi,
Con chim hồng, trái tim nhỏ của tôi,
Mau với chứ! Thời gian không đứng đợi”

Thái độ sống nôn nao, mọi sự đợi chờ thi sĩ đều sợ bỏ phí mất từng khắc của tuổi thanh xuân,trong bài thơ có tựa “thanh niên” Xuân Diệu viết:

“Ngươi đang ở! Ta vội vàng dữ quá!
Sống toàn tâm, toàn trí, sống toàn hồn!
Sống toàn tâm và thức cả giác quan
Và thức cả trong giấc nồng phải ngủ;
Sống, tất cả sống, chẳng bao giờ đủ.”

Xuân diệu phát hiện ra ở thiên nhiên, ở con người gần gũi quanh ta biết bao điều mới lạ thật đáng yêu, cuộc đời trần thế đẹp và hấp dẫn biết bao càng thấy đẹp ta càng muốn tận hưởng, càng muốn tận hưởng thì lại thấy cuộc đời càng đáng sống biết bao, nhưng không ai có thể sống mãi mãi để hưởng mọi lạc thú trần gian. Năm tháng trôi chảy , thời gian một đi không trở lại, với “vội vàng” càng làm ta thấm thía hơn:

“ Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già”

Do đó người thi sĩ này không chờ đợi nắng mới hoài xuân, và cũng chính ước mơ ấy mà nhà thơ có một suy nghĩ thật táo tợn và ngược đời, được thể hiện trong “vội vàng”:

“ Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”

Thi sĩ muốn đoạt quyền tạo hoá, muốn đi ngược lại sự vận động của thiên nhiên, muôn tự mình nắm giữ điều chỉnh thời gian, bởi một người như Xuân Diệu sống để yêu và yêu để sống thì thời gian mà tự nhiên định sẵn từ ngàn xưa đến nay không thể nào đủ, Xuân Diệu muốn lưu giữ lại cái khoảnh khắc của tuổi xuân, muốn thời gian ngưng đọng lại, muốn và muốn như vậy mới có đủ thời gian để thỏa mãn lòng khao khát trong tâm hồn nhà thơ. Thiên nhiên đẹp quá, nó được nhà thơ hình dung thật gần gũi, mà cũng thật táo bạo và mới mẻ :

“Và đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi sáng sớm thần vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”

Mỗi buổi sáng thức dậy mở mắt là thi sĩ được chứng kiến một cảnh tượng mới mẻ, diễm lệ. Ánh bình minh rực rỡ chiếu sáng thế giới vạn vật. Nguồn ánh sáng ấy như được toát ra từ vẻ đẹp của người thiếu nữ, và ở đây khác với thơ xưa, luôn lấy thiên nhiên làm chuẩn mực cho cái đẹp thì ở đây con người lại làm chuẩn cho cái đẹp của thiên nhiên, cái đẹp trở nên mới mẻ hơn và cũng trần thế, gần gũi hơn rất nhiều. Cái đẹp của thiên nhiên dường như chẳng đợi thời gian, chỉ cần trong lòng thi sĩ thấy cảnh đẹp thi được rồi và “xuân không mùa” cũng nói:

“Xuân đã sẵn trong lòng tôi lai láng
Xuân không chỉ ở mùa xuân ba tháng”
“Kể chi mùa, thời tiết, với niên hoa
Tình không tuổi, và xuân không ngày tháng”

Bỡi thi sĩ là kẻ yêu bất kể thời gian, bất kể tuổi tác, tình yêu là bất diệt và trong “đa tình” thì:

“Tôi đã yêu từ khi chưa có tuổi
Lúc chưa sinh, vơ vẩn giữa dòng đời”

Và “Tôi đã yêu khi đã hết tuổi rồi
Không xương vóc, chỉ huyền hồ bóng dáng”

Rồi “Kẻ đa tình không cần đủ thịt da
Khi chết rồi, thì tôi yêu ma”

“Thơ Xuân Diệu còn là một nguồn sống rào rạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn, tha thiết”

Tuy nhiên thực tế vẫn là thực tế:

“Hoa nở để mà tàn
Trăng tròn để mà khuyết,
Bèo hợp để chia tan
Người gần để ly biệt”

Vũ trụ vẫn chuyển động như vốn dĩ, thời gian vẫn trôi, cuộc sống vẫn cứ tiếp diễn. Với sự thức tỉnh ý thức cá nhân sâu sắc, nhà thơ cảm nhận hơn ai hết một sự thật đáng buồn “Tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”, cho dù mùa xuân của đất trời vẫn cứ tuần hoàn, ngày hôm nay đã khác hôm qua, huống chi năm này với năm khác, nàng xuân thì trường sinh còn tuổi trẻ mỗi người đều có giới hạn.

Đến đây cái vui rạo rực của phần trên dường như đã tan biến, nhường chỗ cho một nỗi u buồn, một nỗi niềm nuối tiếc khôn nguôi đối với cuộc sống tươi đẹp trên thế gian này. Nỗi buồn ở đây chẳng qua là cách biểu hiện khác của lòng ham sống lòng yêu đời tha thiết mà thôi. Tình cảm mãnh liệt này trong “vội vàng” lại được diễn tả một cách tài hoa bằng chính những hình ảnh, màu sắc đầy quyến rũ của mùa xuân:

“Cơn gió xinh thì thào trong gió biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng dứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ tàn phai sắp sửa?”

Cảnh xuân càng đẹp càng lộng lẫy bao nhiêu thì sự nuối tiếc của thi sĩ càng lớn bấy nhiêu. Người ta chỉ ham sống khi họ thấy cuộc sống của họ có ý nghĩa, Xuân Diệu cũng vậy càng yêu, càng đắm càng say cảnh đời lại càng phát hiện ra biết bao cái tươi đẹp đang chờ đón, để rồi lại cay đắng nhận ra rằng thời gian trôi đi càng lúc càng vội vã, “chưa có một nhà thơ nào luyến tiếc thời gian đến xót xa như Xuân Diệu. Vì vậy trong niềm say sưa bồng bột trước cuộc đời, tình yêu, sự hiện hữu của thời gian khiến ông chưa bao giờ bình thản”, “Đọc Thơ thơ và Gửi hương cho gió ta dễ dàng nhận ra một Xuân Diệu đang cô đơn chống trả lại sự tàn phá của thời gian” . Trong “Núi xa” ông viết:

“Lẫn với đời quay, tôi cứ đi
Người ngoài không thấu giữa lòng si”

Và cô độc trong “Hư Vô” với:

“Đêm lùa ta thức, một mình đau
Nghe tiếng giờ đi, não dạ sầu”

Bỡi không như các thi nhân xưa, vốn quan niệm rằng, thời gian đi rồi sẽ trở lại, con người sống luân hồi từ kiếp này sang kiếp khác, còn Xuân Diệu thì không. Ông là nhà thơ sống ở hiện tại và sống cho hiện tại, tuổi trẻ đi thì tuổi già sẽ đến đó là sự thật trước mắt mà nhà thơ không thể không nghĩ tới. Tuy nhiên, không vì thế mà nhà thơ chịu khuất phục trước thời gian, để tận hưởng ông sống thật vội vã, bởi ông biết ngày sẽ trôi rất nhanh:

“Những ngày cứ thắt đi từng phút
Rồi mặt trời cao. Nắng cháy tràn
Trưa đến thôi rồi! Bình đã vỡ
Nửa ngày xinh đẹp đã tiêu tan”

Nhà thơ dường như chú ý đến từng bước đi của thời gian từng chút một, như chính “mùa thu tới”:

“Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh”

Thời gian chuyển động qua từng sắc lá trong vườn, và trong “Đây mùa thu tới” tác giả Đỗ Lai Thuý đã có nhận định rằng: “Đó là tiếng gọi của thời gian, hối hả và thôi thúc bằng một điệp khúc “Đây mùa thu tới – mùa thu tới”. Thời gian là dấu hiệu của tàn phai và rơi rụng. Thời gian là sự tuôn chảy “một đi không trở lại”. Chính ý thức về thời gian một chiều chứ không phải tuần hoàn, thời gian định hướng chứ không phải định tính, đã tạo nên cái nhìn nghệ thuật trong toàn bộ sáng tác của anh” .

Theo Đỗ Lai Thuý thì: “Nếu mùa xuân được coi là bình minh của tuổi trẻ thì mùa thu được Xuân Diệu coi như bình minh của tuổi già... Mà bình minh bao giờ cũng là thời khắc ngắn ngủi, nhất là bình minh – thu, bởi vì sau đó không phải là trưa nồng mà là chiều lạnh. Bởi vậy ý thức về thời gian trong mùa thu trở nên sâu sắc”.

Với năng lực trực cảm, Xuân Diệu đã nắm bắt cái độ di chuyển nhạy bén của thời gian. Thơ của ông không chỉ có tả cảnh mà còn là sự nhận thức của các giác quan về sự biến chuyển của thời gian qua “xuân không mùa”:

“Thế là xuân này chỉ ấm hơi hơi
Như được nắm một bàn tay son sẻ”

Hay trong “ Mùa thu tới”:

“Đã nghe rét mướt luồng trong gió
Đã vắng người sang những chuyến đò”

Và “ý thu” cũng vậy:

“Bông hoa rét cánh rơi không tiếng
Chẳng hái mà hoa cũng hết dần”

Thi sĩ như dồn tất cả các giác quan để dỗi theo từng bước chuyển của thời gian, một sự tinh tế đến vô cùng. Thời gian trong thơ Xuân Diệu có nhiều khoảng ngưng đọng chẳng hạn trong bài “Vội vàng”:

“Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất”

Chữ “này đây” như cái đinh ghìm ghìm cho thời gian đứng lại, mặc dù cũng cảnh sắc ấy nhưng thời gian tạm ngừng trôi, được giữ nguyên ở trạng thái “này đây” và giây phút ấy con người như đã cảm nhận hết cái vô biên của tạo vật:

“Trái tim ngừng trong một lúc vô biên
Thời gian hết đất trời không có nữa”

Và trong giây phút ấy, thời gian như kéo ra, con người đã hoà tan vào trời đất lúc này có lẽ là lúc mà Xuân Diệu đã chiến thắng thời gian, làm cho thời gian ngưng đọng lại để tâm hồn hoà nhập vào thiên nhiên. Nhưng cái giây phút tồn tại không lâu, thế nên không chỉ sống vội vàng mà ngay cả trong tình yêu Xuân Diệu cũng vội vàng gấp gáp:

“Gấp đi em anh rất sợ ngày mai
Đời trôi chảy lòng ta không vĩnh viễn”

Bởi lẽ đối với ông thì:

“Thà một phút huy hoang rồi chợt tối
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm”

Cho dù rất hiều rằng “yêu là chết ở trong lòng một ít” thế nhưng Xuân Diệu cũng không vì thế mà không yêu bỡi cuộc đời đẹp nhất là tuổi trẻ mà tuổi trẻ đẹp nhất là tình yêu. Một người như Xuân Diệu yêu cuộc sống đến vậy thì tình yêu của ông cũng mãnh liệt biết bao và khi đọc “Mời yêu” chúng ta mới cảm nhận hết:

“Và hãy yêu tôi một giờ cũng đủ
Một giây cũng cam một chút cũng đành”

Hay:
“Mở miệng vàng và hãy nói yêu tôi
Dẫu chỉ là trong một phút mà thôi”

Trong tâm tưởng của Xuân Diệu, ngày hôm nay qua đi rồi tháng, rồi năm, rồi đời người sẽ hết, tuổi già, cái chết là nỗi ám ảnh lớn trong lòng nhà thơ:

“Nhưng mà tôi sẽ chết than ôi
Tóc ngời mai mốt không đen nữa
Tuổi trẻ khô đi mặt xấu rồi”

Và với những vần thơ trong bài “thanh niên”ta mới thấy hết được sự nuối tiếc thời gian của nhà thơ:

“Ôi thanh niên! Người mang hết xuân thì
Hình ngực nở nụ cười tươi màu tóc láng
Già sẽ đến giơ tay xua ánh sáng
Đuổi bướm đi làm sợ cả hương hoa”

Thời gian với những bước chuyển động tàn nhẫn, sự đối lập giữa thời gian vũ trụ với thời gian của một kiếp người:

“Ngọn gió thời gian không ngớt thổi
Giờ tàn như những cánh hoa rơi”

Trong bài “cảm xúc” với tuyên ngôn sống của nhà thơ là:

“Tôi chỉ là một cây kim nhỏ bé
Mà vạn vật là muôn đá nam châm”

Nhà thơ bị thu hút bởi muôn mặt của cuộc sống, Lý Hoài Thu đã có nhận xét rằng: “xuyên suốt hai tập Thơ thơ và Gửi hương cho gió thời gian là người đếm nhịp là chất xúc tác kì dịu tạo nên độ nồng nàn đắm đuối riêng mà chỉ người thật sự lưu luyên nuối tiếc từng giọt thời gian như Xuân Diệu mới có được”.

Với một quan niệm nhân sinh tích cực luôn sống sôi nổi, mãnh liệt hết mình vì cuộc sống, Xuân Diệu đã dâng cho đời một sự nghiệp văn học đồ sộ, kết quả của những năm tháng lao động nghệ thuật miệt mài, quyết liệt, không hề biết mệt mỏi. Con người ấy đến phút chót của cuộc đời vẫn để lại những dòngthơ yêu đời đến cháy bỏng, đến si mê:

“Trong hơi thở chót dâng trời đất
Cũng vẫn si tình đến ngất ngư”

Đọc thơ Xuân Diệu ta thấy cuộc đời thật đáng yêu, đáng sống hơn biết bao nhiêu và phải mở lòng hơn nữa với cuộc đời. Không thể dửng dưng, hờ hững đến phải nuối tiếc những năm tháng đã trôi qua vô ích.



MỘT SỐ Ý KIẾN ĐỐI VỚI QUAN NIỆM THỜI GIAN QUA THƠ XUÂN DIỆU


3.1 ý kiến của các nhà phê bình
Trong chương 2 là những quan niệm của Xuân Diệu về thời gian, ông đã quan niệm hoá thời gian trong những câu thơ của mình và không dừng lại chỉ riêng Xuân Diệu. Thơ ông, đặc biệt là hai tập thơ trước CMT8 là “Thơ thơ” và “Gửi hương cho gió” đã gây xôn xao trong lòng bạn đọc và các nhà phê bình văn học về quan niệm thời gian của ông.
Đối với mọi người, khi nói đến thời gian ai cũng nghĩ đến sự tuần hoàn theo quy luật của nó, cũng nghĩ đến thời hạn ba vạn sáu ngàn ngày cho một con người. Và cũng có lẽ mỗi người đều thấy bình thường về điều này. Xong trong nhận định của Đỗ Lai Thuý về thời gian qua tác phẩm Xuân Diệu thì lại khác.Ông nói: “Nhưng chỉ mới Xuân Diệu, thời gian mới trở thành nỗi ám ảnh. Thời gian trong thơ ông không chỉ là cảm xúc, là thi hứng, mà còn là nhân tô kiến trúc của tác phẩm nghệ thuật. Có thể nói, Xuân Diệu nhìn đời bằng con – mắt – thời – gian”. Chất Xuân Diệu, phong cách thơ ông là ở đó .
Đối với Xuân Diệu thì: “thời gian cũng như đời người một đi không trở lại”
Và ở đâu đó, thời gian trong thơ ông phản phất một chút của sự sống, của tuổi trẻ tuổi xuân mọi nơi: “thời gian với Xuân Diệu mang tính lưỡng giá. Một mặt, ngọn – gió – thời gian đem tuổi trẻ tình yêu đến. Và sự sống tình yêu lại được gió mang đi gieo vãi khắp nơi (Gửi hương cho gió)” . Có lẽ đối với mọi người, một ngày qua đi là một ngày ta bước gần đến ngôi mộ đã định sẵn cho mình, và ta cũng thấy nó bình thường thôi. Chuyện con người sống rồi phải chết là hết sức bình thường có gì đâu phải luyến tiếc, mà dù có luyến tiếc đi chăng nữa thì trong cuộc sống hiện tại ta vẫn phải tồn tại, vẫn phải sống vui mà thôi. Nhưng đối với Xuân Diệu thì lại khác: “Mất thời gian là mất tất cả thậm chí cái tưởng như tuyệt đối: sự thật hôm nay không thật đến ngày mai!” . mọi thứ đều chìm vào không gian vũ trụ, tất cả sẽ không còn ý nghĩa nữa. Sự tàn khốc của thời gian là vậy và con người cũng chẳng làm gì để ngăn cản nó, ngăn cản cái thời gian mà khoa học thường gọi đó là thời gian khách quan.
Nhưng tuyệt thay, kỳ dịu thay, đều là con người, đều chịu sự bào mòn của thời gian nhưng Xuân Diệu lại thấy: “Phút giây hiện tại là sự cô đặc của thời gian… cái thời gian khách quan đó đếm được bằng máy móc không tồn tại nữa, mà đã chuyển qua thời gian của cảm giác, tâm trạng. Đó là thứ thời gian tâm linh, không có quá khứ, hiện tại, tương lai, khoảnh khắc, thiên thu” . Ông đã chống lại được cái khốc liệt của thời gian và sống với: “Cái điệu sống vội vàng, cuống quýt của Xuân Diệu bắt nguồn xâu xa từ ý thức về thời gian, về sự ngắn ngủi của kiếp người, về cái chết như là kết cục không tránh khỏi mai hậu” .
Đối với ông: “đời người là ngắn ngủi, cần tranh thủ sống. Sống hết mình sống đã đầy thế nên phải chớp lấy từng khoảnh khắc, phải chạy đua với thời gian” . Và trong quan niệm của ông, thời gian là của tuổi xuân, sắc xuân, cảnh xuân là tuyệt nhất song cũng đắng cay nhất. Ông đã ví: “Mùa xuân đến giống như cặp môi gần, nó ngọt ngào song vô cùng ngắn ngủi và người hưởng thụ được cái ngon của xuân non trẻ mà thôi. Và chính vì vậy xuân và cái vị ngon ngọt của nó đều vô cùng ngắn ngủi, thời gian sẽ cướp đi hết thảy. Có lẽ cũng lần đầu tiên thơ ca Việt Nam có được cái quan niệm này” . Đúng là lần đầu tiên chúng ta mới thấy, và được cảm nhận một quan niệm như vậy, cái mà qui luật thời gian đã ngầm áp đặt.
Thời gian đối với con người là sự tuần hoàn liên tục của bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, còn Xuân Diệu thì khác: “Xuân Diệu đã nồng nhiệt phủ định: “ nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn – nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại” thước đo thời gian của thi sĩ là tuổi trẻ. Tuổi trẻ một đi không trở lại thì làm gì có sự tuần hoàn." Đối với Xuân Diệu thì thời gian chính là: “Tuổi thanh niên mang theo biết bao niềm vui thú, hứa hẹn cho những ngày hiện tại. Gắn bó với cuộ đời chính là gắn bó với tuổi xuân, khi tất cả đang còn ở độ thanh xuân Xuân Diệu ca ngợi tuổi trẻ yêu đời, tuổi trẻ muôn năm” . Có thể và cũng vì vậy mà: “Tác giả rất có ý thức với hiện tại. Thời gian nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu là thời gian hiện tại. Hiện tại luôn được miêu tả trong tương quan với quá khứ, so sánh với quá khứ…” . Sự tồn tại của ông là tồn tại với cái hiện hữu đang có, ông tồn tại ngay trong đời và cũng vì thế nên: “ thời gian của Xuân Diệu mang tính chất trần thế. Cả hai trăm bài thơ tình cũng bị thời gian… ám ảnh” .Song hoa tươi tốt cũng phai tàn theo thời gian và từ nỗi đau đớn ấy ông đã: “Bộc lộ lòng ham sống, bộc lộ nỗi hốt hoảng trước sự chảy trôi của thời gian, ông khẩn thiết kêu gọi mọi người lòng tận tâm, siêng năng mà sống mà yêu…” .
Thơ Xuân Diệu: “Không thầm thì, không thâm trầm, mà thích kêu to, nói lớn,vì nó chân tình thiết tha say đắm nên không ai thấy, đôi khi nó cũng khá ào ạt: mau lên chứ vội vàng lên với chứ… vội vàng sống, giục giã yêu, tận hưởng giờ phút hiện tại, đời người ngắn ngủi thời gian không đợi” . Xuân Diệu đã thi vị hoá thời gian, đã chống trả quyết liệt với cái tàn phà của nó bnằg một thứ thời gian rất Xuân Diệu đó là thời gian nghệ thuật: “Thời gian nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu mang một sắc thái riêng: thi sĩ dồn nén quá khứ, tương lai về hiện tại và trong cái hiện tại, nhà thơ chỉ chú ý đến cái bây giờ” .

3.2 ý kiến bạn đọc
Cái tham lam, lòng ham sống, sợ thời gian, và cũng chống lại thời gian đã là một Xuân Diệu tuyệt vời, đáng để cho các nhà nghiên cứu văn học phải suy nghĩ lắng nghe. Còn đối với bạn đọc trẻ thì càng gây thêm nhiều xúc cảm và sự tò mò. Có một đoạn trong bài văn như sau: “Ôi, biết bao là mong đợi, sợ hãi, hững cảm giác quá nhiều hân hoan, nhục cảm trong những câu thơ trong vắt ấy…nếu thời gian có màu trong thơ Xuân Diệu, tôi thường nghĩ nó trong suốt màu nhục cảm, hoặc ở đó màu nhục cảm đã thành trong suốt qua thơ Xuân diệu, đến mức mùa thu đến với ông, đã được vị thi sĩ Huê Tình này chiêm bái, ngưỡng vọng như một thân xác đẹp đã đầy của thiếu nữ vừa ửng chín: Đây mùa thu tới mua thu tới – với áo mơ phai dệt lá vàng” .
Có lẽ đúng như bạn ấy nói, một dẫn chứng khác để có thể làm rõ hơn cho cái nhận định về lòng ham sống của Xuân Diệu là: “Tình yêu trong thơ Xuân Diệu là tình yêu vội vàng giục giã. Ông sợ thời gian, ông muốn vũ trụ ngưng đọng” .
Trong bài viết “viết cho bè bạn: có đoạn nói về Xuân Diệu rất hay và cũng đúng như in một Xuân Diệu đã từng tồn tại: “Xuân Diệu không phải chỉ là một Xuân Diệu gói kín trong thơ mà là một Xuân Diệu nồng nhiệt vội vàng, đam mê như đang đứng trước chúng tôi”
Đó là những ý kiến, nhận định của giới chuyên môn cũng như suy nghĩ của bạn đọc trẻ về Xuân Diệu. Vâng, quan niệm thời gian của Xuân Diệu chính là như thế, chính là cái thời gian tâm linh, thời gian sống của ông.


LỜI KẾT LUẬN

Nghiên cứu về Xuân Diệu có nghĩa là nghiên cứu về một hiện tượng nghệ thuật điển hình trong phong trào thơ mới, thơ ca tiêu biểu cho thế hệ thi nhân tiền chiến 1932 -1945 ở hai thời kì trước và sau CMT8. Xuân Diệu đã từng nói rằng: “Thơ mới là một trong các hiện tượng dân tộc, nó đã đóng góp vào “văn mạch dân tộc”…. Trong phần tốt của nó, thơ mới có một lòng yêu đời, yêu thiên nhiên, đất nước, yêu tiếng nói dân tộc. Thơ mới là một tiếng hát đau khổ, không chia vui ở cái xã hội ngang trái, vùi dập đương thời”.

Và ở giai đoạn đầu với hai tập Thơ thơ (1938) và Gửi hương cho gió (1945) Xuân Diệu được coi là gương mặt tiêu biểu trong trào lưu thơ ca lãng mạn, mà nói như Nguyễn Hoành Khung thì là “nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới”. Với tư tưởng tiến bộ, Xuân Diệu đại diện cho thế hệ trẻ cấp tiến. Yêu và sống hết mình, dám bày tỏ quan điểm suy nghĩ tình cảm của “cái tôi” cá nhân. Muốn giải phóng từ bỏ cái quan niệm cổ hữu của thơ xưa, với một ý thức cá nhân sâu sắc, đến với thơ Xuân Diệu ở giai đoạn này, ta bắt gặp một anh chàng thi sĩ bồng bột biết bao trước cuộc sống, yêu cuộc sống thiết tha đến sống vội vàng cuống quýt để tận hưởng cho hết hương hoa cuộc đời, một chàng trai trẻ yêu vội vàng mà cũng rất cuồng si, yêu vội mà mãnh liệt, biết quí trọng từng thời khắc của tuổi trẻ.

Xuân Diệu đã mang đến cho thi đàn Việt Nam những năm 30 một nguồn cảm hứng tình yêu rào rạt, một luồng rung động mới mẻ trước tình yêu, một nhịp sống mới với một “cái tôi” giàu màu sắc, hình tượng. Về hình thức, Xuân Diệu đã tạo ra một bước mới trong lĩnh vực thơ ca, thơ của ông với kiểu cấu trúc hiện đại, mới mẻ tạo nên một sự đột phá trong phong trào thơ mới.

Đến với Xuân Diệu ta sẽ thấy “Xuân Diệu là ngòi bút chiến đấu, không ngừng chiến đấu, chiến đấu rất tích cực cả về chính trị và văn chương, cả về tiểu luận phê bình và thơ ca.Bút lực của anh thật là mạnh mẽ, phong phú uyển chuyển dù không phải lúc nào cũng chân xác. Nhưng các bạn đọc quý anh, trong anh nhà thơ có tài năng đi từ thế giới cũ đến thế giới mới, đi từ sáng tạo này đến sáng tạo khác, tinh thông văn học trong nước và thế giới, một người có công trong văn học mới. Một người đáng bật thầy cho các thế hệ nhà thơ trẻ”.

Với hơn nửa thế kỷ hành trình sáng tạo, từ một nhà thơ lãng mạn trở thành một nhà thơ cách mạng, Xuân Diệu đã để lại trong kho tàn văn học dân tộc một di sản lớn. Ông có đóng góp lớn trong nhiều lĩnh vực và đều đặn ở nhiều thời điểm lịch sử khác nhau (Trước CMT8: trong thời kỳ kháng chiến, sau hòa bình; thời kỳ đấu tranh thống nhất sau ngày miền Nam giải phóng…). Thế nên vị trí của Xuân Diệu trên thi đàn văn học dân tộc Việt Nam sẽ là không nhỏ.

Chúng ta đã, đang, và sẽ còn có những công trình nghiên cứu về Xuân Diệu nói riêng và trào lưu thơ mới nói chung, để thế hệ hôm nay và mai sau không chỉ hiểu đúng mà còn hiểu đủ về thế hệ cầm bút đi trước. Nó chẳng những có đóng góp lớn lao trong lĩnh vực văn học nghệ thuật mà còn có giá trị tích cực trong lịch sử chính trị.

Chúng tôi đã trình bày một số quan điểm của các ý kiến của các nhà nghiên cứu về vấn đề thời gian qua đó so sánh đối chiếu với quan niệm cá nhân của Xuân Diệu về thới gian qua đó làm nổi bật tư tưởng cá nhân, quan điểm của nhà thơ đối với vấn đề này, để thấy được cách sống, cách suy nghĩ của ông trong giai đoạn phong trào thơ mới. Biết thêm về một Xuân Diệu ham sống và quý cuộc sống đến nhường nào. Qua đó để làm bài học cho thế hệ chúng ta thời nay: phải biết quý trọng từng khoảnh khắc của tuổi trẻ.

Vì là thời gian nghiên cứu có hạn, đề tài chúng tôi chỉ nghiên cứu một phần rất nhỏ trong kho.