Thứ Ba, 10 tháng 9, 2013

THƠ HẬU HIỆN ĐẠI: HOẢNG HỒN VỚI NHỮNG CÚ CHẠY ĐÀ PHẤT CỜ, MIỆNG LƯỠI TỤNG TÁN CỦA INRASARA – PHÓ CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG THƠ VN

"Nhà thơ hậu hiện đại chối bỏ mọi dạng đại tự sự grand narratives làm ngu muội đầu óc và làm u mê tinh thần. Chối bỏ đại tự sự không gì hiệu quả hơn thái độ giải thiêng sự thể. Giải thiêng hình chữ S của đất nước (Nguyễn Hoàng Tranh), giải thiêng ảo tưởng bốn ngàn năm văn hiến (Đinh Linh) hay niềm tự hào về truyền thống văn hóa dân tộc (Nguyễn Đăng Thường), giải thiêng huyền thoại Việt Nam là nước thơ (Lý Đợi) và giải thiêng chính bản thân thơ ca (Bùi Chát): thơ ca chỉ là món hàng như mọi món hàng, nó không đứng cao hay thấp hơn các hàng hóa khác….”

Qua đoạn trích này ta thấy nổi lên một vấn đề: Trong quan niệm của nhà thơ hậu hiện đại,  những vấn đề xưa nay rất thiêng liêng như Tổ quốc Việt Nam hình chữ S, truyền thống văn hoá Việt Nam bốn ngàn năm thiêng liêng, giá trị thiêng liêng của thơ ca… - đều trở thành tầm thường, không có gì gọi là thiêng liêng cả. Họ đã tầm thường hoá những giá trị thiêng liêng ngàn đời của dân tộc.
Quan niệm như vậy là hoàn toàn trái với truyền thống tốt đẹp và thiêng liêng của dân tộc ta. Chúng ta khó có thể chấp nhận được một quan niệm như vậy trong sáng tác thơ ca chân chính. Chính vì quan niệm như trên mà những nhà thơ hậu hiện đại đã sáng tác ra những vần thơ lạ, kinh dị so với thơ truyền thống giàu tính văn hoá của chúng ta.

PHẢI CHĂNG THƠ HẬU HIỆN ĐẠI VIỆT NAM CHẤP NHẬN SỰ VÔ VĂN HOÁ?
Tôi phải dằn lòng, xót xa và đau đớn lắm, mới thốt lên một tựa đề như thế cho bài viết bất đắc dĩ này. Bởi viết như thế có nghĩa là mình đã có "sự hoài nghi vô căn cứ” về nội dung của thơ Việt Nam hậu hiện đại – mà "sự hoài nghi vô căn cứ ấy” hình như lại có "tính áp đặt” nữa chứ? Thơ hậu hiện đại Việt Nam – đó là một vấn đề lớn, cần có sự nghiên cứu thấu đáo, có hệ thống và mang tính khách quan cao độ của cả một đội ngũ phê bình có tài và tâm huyết - thì mới mong hiểu được những đặc trưng cơ bản của trào lưu thơ đang thịnh hành trên thế gian này.
Để rồi từ đó mới lọc ra những tinh hoa của nó, cái nào hợp với truyền thống văn hoá ngàn năm của Việt Nam, thì ta tiếp thu nhằm làm phong phú thêm nền văn văn hoá đậm đà bản sắc của chúng ta. Còn những điều của trào lưu thơ hậu hiện đại phương tây không phù hợp với văn hoá và tâm thức của người Việt Nam – thì ta chỉ để tham khảo mà thôi.
Vì quan niệm như vậy, nên từ năm 2004 tới giờ, khi đọc những bài thơ mang cảm thức hậu hiện đại từ nhiều nguồn, dẫu trong lòng tôi (một bạn đọc chân chính) bùng phát rất nhiều nỗi bức xúc – nhưng vẫn cố kìm nén và chờ đợi… chờ đợi mãi, cho đến tận hôm nay (tháng 8 năm 2012) mà vẫn chưa có nhà phê bình nào nêu lên cái hay cái đẹp và cái tinh tuý có sức thuyết phục bạn đọc rộng rãi của trào lưu thơ hậu hiện đại Việt Nam. Lòng tôi rất bức xúc, mà vẫn không dám có ý kiến về thơ hậu hiện đại. Vì sao? Vì:

Một là: Tất cả các vị giáo sư tiến sĩ, một số nhà thơ chuộng cách tân hiện nay và đặc biệt là hai cơ quan chuyên về văn học lớn nhất của Việt Nam là Hội nhà văn Việt Nam và Viện Văn học – đều nhất loạt cổ vũ cho trào lưu cách tân thơ theo cảm thức hậu hiện đại. Điều này thể hiện rõ bằng việc tổ chức các hội thảo thơ rất hoành tráng: Hội thảo thơ Đồng Đức Bốn và Mai Văn Phấn – Hội thảo Thơ Việt Nam hiện đại và Nguyễn Quang Thiều – Hội thảo Hoàng Quang Thuận với non thiêng Yên Tử.
 Điều đó còn thể hiện rất rõ trong việc trao giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam năm 2012 cho các tác giả Mai Văn Phấn, Đinh Thị như Thuý, Đỗ Doãn Phương và Từ quốc Hoài…
Hai là: Trào lưu thơ hậu hiện đại của phương tây cũng chỉ bùng phát hơn ba chục năm nay. Do đó nó rất mới, mới so với thế giới đã đành, mà đối với Việt Nam ta , thì nó lại càng vô cùng mới mẻ và hẳn chứa chan bao điều bí ẩn đầy quyến rũ. Chính vì lẽ đó, nếu ta chưa hiểu nó, mà chỉ căn cứ vào cảm tính nhất thời khi tiếp xúc với nó – thấy khác mình, liền vội lên tiếng tẩy chay nó một cách vô căn cứ - thì thật là không khách quan, không khoa học và đúng là hồ đồ. Nếu là bạn đọc chân chính và có lương tri – thì không nên và không được phép hồ đồ.
 Ba là: Điều này rất riêng – nhưng nó cũng góp phần làm cho tôi im lặng bấy lâu nay, không lên tiếng nói quan điểm của mình về thơ hậu hiện đại Việt Nam (dẫu rằng trong lòng rất bức xúc). Đó là nhà thơ Inrasara cũng là bạn tôi trên phương diện thi ca (cùng là người dân tộc thiểu số làm thơ bằng tiếng mẹ đẻ của mình và bằng tiếng Việt). Anh Inrasara là người Chăm và tôi, Triệu Lam Châu là người Tày chính gốc.
Anh Inrasara là một nhà thơ có uy tín trong làng thơ ta hiện nay. Anh đã từng hai lần đoạt giải thưởng thơ cao nhất của Hội nhà văn Việt Nam và Giải thưởng văn học quốc tế Đông Nam Á. Nhà thơ Inrasara là một người để nhiều tâm huyết nghiên cứu trào lưu thơ hậu hiện đại của thế giới và của Việt Nam, nên đã có những bài viết công phu về trào lưu thơ mới mẻ này.
Tôi không phải là một nhà nghiên cứu phê bình văn học, mà chỉ đơn thuần là một người làm thơ thôi. Dẫu vậy giờ đây, khi đọc được quan niệm của Inrasara là chấp nhận mọi sự khác biệt với mình (theo cảm thức hậu hiện đại) – thì tôi mạnh dạn có bài viết trao đổi này, cũng vì việc chung mà thôi. Tôi rất ngại và rất dè dặt…
Ngày 29 tháng 8 năm 2012 trên lethieunhon.com có đăng bài viết của Inrasara với tựa đề là: Ai trách nhiệm định hướng thẩm mĩ độc giả?
Tiếp đó là phản hồi của bạn đọc khi đọc bài trên của Inrasara. Tôi xin copy các phản hồi đáng chú ý sau đây:
Phản hồi của bạn Hoàng Gia Khanh:
28/08/2012 18:01
" Xin hoan nghênh bài viết của In ra sa ra, nhưng có đoạn cần phải trao đổi thêm:"
Rồi cả thập kỉ hình thành và lớn mạnh của phong trào sáng tác hậu hiện đại, non mười năm thơ tân hình thức xuất hiện và phát triển, tại sao Hội Nhà văn chưa có một hội thảo nhỏ, lớn nào bất kì về chúng? ..."Xin thưa, cái món hậu hiện đại bây giờ đã lạc mốt, lỗi thời, có thành tựu gì đâu mà nhăm nhe hội thảo?Không rõ nhà thơ ngây thơ hay ít đọc, hay cuồng tín mà tung hô cái món hậu hiện đại và tân hình thức này dữ vậy:
T
tôi nhặt lọn tóc đen cuối cùng tết bằng kỉ niệm
và những khuôn mặt đêm lượm về trên phố  
cùng mùa thu vầng trăng hình như khuyết  
gửi vào số máy 09…015

"tin nhắn gửi tới số 09…015 chưa thực hiện được
viettel xin gửi lại bạn 250 đồng”
và đêm
những vụn độc thoại  
t…í…c…h…
            t…ắ…c…
tôi không nghe tim mình đập 70 lần/phút  
tôi không nghe tim mình đập 70 lần/  
tôi không nghe tim mình đập 70 lần
tôi không nghe tim mình đập 70  
tôi không nghe tim mình đập
tôi không nghe tim mình
tôi không nghe tim
tôi không nghe
tôi không
tôi  
t.  
tôi nhặt thêm vài sợi tóc mùa thu
bệt vào tờ thư gọi là nỗi nhớ
niêm phong bằng con tem hồ nghi  
gửi đến số máy 09…015  

"tin nhắn gửi tới số 09…015 chưa thực hiện được.
viettel xin gửi lại bạn 250 đồng”.
"thuê bao quý khách vừa gọi
                  tạm thời không liên lạc được
xin quý khách vui lòng gọi lại sau”  
và quầng thâm  
võng xuống mắt  
        liệt>

tôi không nghe tim mình đập 70 lần/ phút  
tôi không nghe tim mình đập 70 lần/  
tôi không nghe tim mình đập 70 lần
tôi không nghe tim mình đập 70  
tôi không nghe tim mình đập
tôi không nghe tim mình
tôi không nghe tim
tôi không nghe  
tôi không
tôi  
t...
Loại thơ đó thử hỏi có đáng ném vào sọt rác hay không mà ai đó còn định mang ra làm trang sức cứu cánh..”
Phản hồi của bạn Lý Văn Trinh:
29/08/2012 06:54
" Tôi nghĩ ở các nước Phương tây sau khi đã lên đến tột đỉnh của " văn chương lãn mạn". Sau khi nền công nghiệp đã hiện đại, khoa học kỹ thuật của họ phát triển đến đỉnh cao, trong khi sức chịu đựng ( tinh thần tình cảm) của con người có lẽ có hạn, thiên nhiên, tự nhiên bị tàn phá, lòng người thì " ăn ngay, yêu ngay- hốt liền nên hình như họ " vô cảm duy lí)...Nên văn chương của họ mới sinh ra " chán chường" và có "hậu hiện đại và tân hình thức" chăng?! Chả thế mà rất nhiều nhà văn hóa của Phương tây đang muốn tìm về " văn hóa Phương đông) chăng? Tôi nghĩ văn hóa Việt, văn hóa Phương đông không chỉ và không thể cứ cố tình " nhồi nhét" cái  hậu hiện đại", áp đặt như ý nghĩ của INRASARA hay cách làm thơ của Nguyễn Quang Thiều được! Sự tinh tế giầu biểu cảm, phong phú và vẻ đẹp lung linh của tiếng Việt, của ngữ pháp tiếng Việt nếu đi theo lối này , chắc chắn sẽ" chết"!....”
 Tôi, Triệu Lam Châu rất tán đồng với hai phản hồi này của hai bạn Hoàng Gia Khanh và Lý Văn Trinh về thơ hậu hiện đại Việt Nam.
Lâu nay tôi dè dặt phân vân, vì mình chưa có cảm thức hậu hiện đại, nên chưa chấp nhận và chưa thấm thía chất hậu hiện đại của trào lưu thơ này chăng? Rõ ràng là mình chưa thay đổi được thói quen thưởng thức thơ bấy lâu nay. Từ trước tới nay đông đảo bạn đọc nước ta quen thưởng thức thơ theo quan niệm truyền thống, theo tôi là có mấy điểm cơ bản như sau:
Thơ là thiêng liêng là tâm huyết và vô cùng cao quý. Chính vì vậy nó rất sang trọng, nó không dung nạp sự vô văn hoá. Và nhờ vậy, đọc thơ như là sự thanh lọc tâm hồn. Thơ là thuốc bổ  dưỡng tâm hồn.
Trước tiên hãy làm một con người tốt và một công dân tốt đã, rồi mới làm thơ. Phải có sự trải nghiệm cuộc sống sâu xa và có tài năng, có tâm huyết, đồng thời phải lao động nghệ thuật nghiêm túc – thì mới có cơ hội có thơ hay.
Thơ phải mang những nỗi niềm của đông đảo dân chúng và của lòng mình.
Do những chuẩn mực cơ bản như vậy về nội dung, nên hình thức thơ phải làm sao tác động hiệu quả nhất đến tâm hồn người đọc tri âm. Người đọc sẽ cảm thơ, hiểu thơ, yêu thơ, rồi cuối cùng là thuộc thơ. Xưa nay thơ hay thường là thơ trong sáng, giản dị, đẹp đẽ và ngân vọng trong lòng ta như tiếng hát tri âm không bao giờ phai.
Từ quan niệm như vậy và từ hai phản hồi của hai bạn Hoàng Gia Khanh và Lý Văn Trinh như trên – mà tôi cảm thấy không dè dặt nữa, cần trao đổi thẳng thắn vấn đề: Thơ Việt Nam hiện nay nên tiếp nhận trào lưu thơ hậu hiện đại của thế giới như thế nào?
 Trước tiên xin nói về ưu điểm của trào lưu thơ hậu hiện đại:
Một là: Nó chấp nhận mọi sự khác biệt với nó. Nghĩa là nó không kỳ thị, không phân biệt đâu là thơ nước này hay nước kia, dân tộc này hay dân tộc kia, tầng lớp này hay tầng lớp khác… Do đó về khía cạnh nào đó, nó có tính dân chủ và không có tính áp đặt. Chúng ta đã biết trong sáng tạo văn chương mà áp đặt phải thế này phải thế nọ - thì sẽ khó có tự do sáng tác. Và như vậy tác phẩm sinh ra trong sự áp đặt, sẽ khó thành những tác phẩm văn chương đích thực.
Hai là: Quả thật họ (những người làm thơ theo cảm tức hậu hiện đại) đã tạo ra một loại thơ hoàn toàn mới mẻ và lạ lẫm, mà từ trước tới nay chưa hề có trong lịch sử phát triển văn học toàn nhân loại. Theo lô gích xưa nay, thì những phát kiến về khoa học tự nhiên và xã hội càng về sau càng hoàn hảo hơn giai đoạn trước đó. Có lẽ vì vậy mà nó là một miền đất lạ đầy quyến rũ cho những khám phá mới thả sức tung hoành. Chính vì lẽ đó nó dễ gây ảo tưởng rằng trào lưu này là đỉnh cao của mọi đỉnh cao về phương thức sáng tạo nghệ thuật, nên nó dễ lôi kéo nhiều người đi vào quỹ đạo của nó.
Ba là: Thơ hậu hiện đại nói chung đều có tính cảnh tỉnh, phản tỉnh hay phản biện xã hội, nhất là trong xã hội phương tây còn ngổn ngang bao điều bất hợp lý cần giải quyết. Do đó nó cũng là tiếng lòng của một số bộ phận đối trọng với xã hội, chủ yếu là ở phương tây.
Bốn là: Thơ hậu hiện đại thể hiện được cái tôi gần như tự do tuyệt đối, một kiểu tự do vô chính phủ. Chính đặc tình này nó rất đắc đạo với quan điểm đề cao tự do cá nhân rất thịnh hành ở phương tây. Tự do vô chính phủ, gần như đồng hành với nổi loạn.
Năm là: Chính vì những đặc điểm nội dung trên mà chúng ta dễ nhận thấy, hình thức thơ hậu hiện đại là một loại thơ rất khó hiểu. Và một số người quan niệm làm thơ không phải để hiểu !? Nó là một loại thơ hình như chỉ nhằm xả nỗi bức xúc mà thôi!
Hẳn còn nhiều điểm khác nữa, khi nói về mặt "ưu điểm” của trào lưu thơ hậu hiện đại. Song theo tôi, thì tạm dừng lại năm điểm như vậy đã.
Bây giờ chúng ta cùng đi vào nghiên cứu những mặt hạn chế của trào lưu thơ hậu hiện đại như sau:
Theo bài viết của Irasara (trên inrasara.com) với tựa đề:  "Thơ Việt, từ hiện đại đến hậu hiện đại
Posted on 03.03.2009 by admin
(sửa lại vào ngày 19-1-2010)
THƠ VIỆT, TỪ HIỆN ĐẠI ĐẾN HẬU HIỆN ĐẠI”
trong đó có viết:
"Nhà thơ hậu hiện đại chối bỏ mọi dạng đại tự sự grand narratives làm ngu muội đầu óc và làm u mê tinh thần. Chối bỏ đại tự sự không gì hiệu quả hơn thái độ giải thiêng sự thể. Giải thiêng hình chữ S của đất nước (Nguyễn Hoàng Tranh), giải thiêng ảo tưởng bốn ngàn năm văn hiến (Đinh Linh) hay niềm tự hào về truyền thống văn hóa dân tộc (Nguyễn Đăng Thường), giải thiêng huyền thoại Việt Nam là nước thơ (Lý Đợi) và giải thiêng chính bản thân thơ ca (Bùi Chát): thơ ca chỉ là món hàng như mọi món hàng, nó không đứng cao hay thấp hơn các hàng hóa khác….”
 Qua đoạn trích này ta thấy nổi lên một vấn đề: Trong quan niệm của nhà thơ hậu hiện đại,  những vấn đề xưa nay rất thiêng liêng như Tổ quốc Việt Nam hình chữ S, truyền thống văn hoá Việt Nam bốn ngàn năm thiêng liêng, giá trị thiêng liêng của thơ ca… - đều trở thành tầm thường, không có gì gọi là thiêng liêng cả. Họ đã tầm thường hoá những giá trị thiêng liêng ngàn đời của dân tộc.
Quan niệm như vậy là hoàn toàn trái với truyền thống tốt đẹp và thiêng liêng của dân tộc ta. Chúng ta khó có thể chấp nhận được một quan niệm như vậy trong sáng tác thơ ca chân chính.
Chính vì quan niệm như trên mà những nhà thơ hậu hiện đại đã sáng tác ra những vần thơ lạ, kinh dị so với thơ truyền thống giàu tính văn hoá của chúng ta.
Tôi xin trích tiếp từ bài viết của Inrasara như sau: "…Vài chục năm qua, các tên tuổi: Trịnh T. Minh-hà, Phạm Thị Hoài, Lê Thị Huệ, Lê Thị Thấm Vân, Nguyễn Hương, Đỗ Lê Anh Đào,… đã đi những bước dài. Ở trong nước, sau phong trào nữ quyền luận sơ khai qua sáng tác của Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư là nhóm Ngựa Trời với "cuộc cách mạng thơ dang dở” của họ. Không cần tuyên bố to chuyện mà, chỉ bằng một nhát dao, Nguyễn Thị Hoàng Bắc đã cắt đứt cái đuôi hậu tố "nữ”, rất tuyệt.

tiếng nước đái
nhỏ giọt
trong bồn cầu tí tách
thứ nước ấm sóng sánh vàng
hổ phách
trong người tôi tuôn ra
phải rồi
tôi là đàn bà
hạng đàn bà đái không qua ngọn cỏ
bây giờ
được ngồi rồi trên bồn cầu chễm chệ
tương lai không chừng tôi sẽ
to con mập phệ
tí tách như mưa
ngọn cỏ gió đùa(10)

Những kiểu thơ như vậy không hiểu nó hay như thế nào, mà Inrasara buông một câu gồm hai chữ "rất tuyệt”. Riêng tôi, Triệu Lam Châu thì không thấy hay. Nhưng thôi, chúng ta cứ theo tinh thần hậu hiện đại là chấp nhận sự khác biệt nhau vậy. Song tôi đinh ninh rằng, theo thói quen thưởng thức thơ truyền thống, thì quảng đại quần chúng yêu thơ sẽ cho rằng: Đấy là loại thơ… bỏ qua giá trị thẩm mỹ…
Xưa nay trong thơ hay trong tiểu thuyết khi phản ánh những mảng tối trong lòng của những nhân vật phản diện, thể hiện lúc chúng chửi nhau tục tằn, nhà văn cũng chỉ dám viết: Đ… mẹ nó!
Chỉ cần vậy thôi là người đọc hiểu rồi. Viết như vậy là văn hoá, là chừng mực, cần gì phải viết trắng ra nữa, kinh lắm. Nếu ta để ý hàng ngày bà con hay bạn bè nói chuyện với nhau, khi cần dẫn chứng ra một câu chửi tục của ai đó, họ đều nói: "Xin lỗi, nó chửi thế này…” Vậy có nghĩa là người ta xử sự một cách có văn hoá. Trong lòng họ là một vầng sáng văn hoá, khi đụng đến những câu chửi tục tằn, hình như họ cảm thấy thoáng lạnh cả tâm hồn (bởi vì họ đâu muốn nói câu đó) – nên họ xin lỗi trước… rồi trích dẫn câu nói tục kia sau…Thế mà nhà thơ hậu hiện đại Việt Nam lại công khai và trắng trợn nữa – thể hiện sự "vô văn hoá” (xét theo quan niệm truyền thống xưa nay). Tôi, Triệu Lam Châu lại đành phải xin lỗi bạn đọc, vì phải bất đắc dĩ trích dẫn bài thơ thể hiện sự vô văn hoá của nhà thơ hậu hiện đại Bùi Chát như sau để chứng minh cho luận điểm của mình:

cái lồn què
là cái lồn có kinh, ngoài ra có thể hiểu như sau:

ngày xưa, cách đây thật nhiều nhiều năm. các loài đều chung sống, đối đãi với nhau như bạn bè, riêng đàn bà & lồn là 2 loài ăn chơi đàn đúm & nhậu nhẹt bê tha hơn cả

vì mắc nợ một món tiền khá lớn, lồn buộc phải ở đợ cho đàn bà. suốt ngày quanh quẩn trên cơ thể, làm lụng vất vả: từ chăm sóc sắc đẹp cho đến vệ sinh các thứ…

một hôm. nhớ giang hồ không chịu nổi, lồn bỏ trốn vài ngày. chính thế mà đàn bà biết, loài đàn ông yêu thương, đắm đuối mình cũng chỉ vì lồn

để giữ lồn lại bên mình. đàn bà tìm mọi cách giăng bẫy, đánh đập lồn tàn nhẫn đến què cả hai chân…sau đó xiềng luôn ở háng

từ đó, phần bị thiên hạ đàm tiếu, phần vì đi đứng không tiện. chẳng ai biết lồn ở đâu

duy bọn trẻ lúc nào cũng nghĩ: đàn bà & lồn, nhất định là một
(Theo talawas chủ nhật, ngày 5/3/2006)

Những bài gọi là thơ hậu hiện đại này, nó đảm bảo tính lạ lẫm, khác người hoàn toàn, phản lại văn hoá truyền thống cả về nội dung lẫn hình thức…Liệu người yêu thơ chân chính có chấp nhận loại thơ này không? Và nếu theo đà này mai sau cả một lớp nhà thơ mới sáng tác theo phong cách ấy – thì nền thơ nước nhà sẽ đi về đâu? Tôi xin lưu ý: Tôi copy từ internet bài thơ này, nên hình thức chính tả được giữ y nguyên. Sau dấu chấm – không viết hoa, khi xuống dòng – cũng không viết hoa nốt. Nghĩa là…tác giả chủ tâm làm khác truyền thống hoàn toàn về mọi phương diện….
Thế rồi Irasara viết tiếp: "Hậu hiện đại đang xảy ra tại Việt Nam, đó là thực tế. Lực lượng chưa nhiều. Không ít của chưa nhiều này không tự nhận sáng tác theo hậu hiện đại; còn lại cũng chưa áp dụng đầy đủ thủ pháp hậu hiện đại. Hơn nữa – ngoài nhóm Mở Miệng – mỗi nhà thơ đều sáng tác đơn độc, nên hậu hiện đại Việt chưa thể hình thành một trào lưu rộng lớn, tác động nhiều chiều đến văn học và xã hội nói chung.
Nhưng tất cả gặp nhau ở cảm thức hậu hiện đại.

Cảm thức hậu hiện đại postmodern sensibility:

Cảm thức hậu hiện đại là một lối cảm nhận về thế giới như là một hỗn độn, vô nghĩa, bất khả nhận thức; nơi mọi bảng giá trị đều đổ vỡ, mọi định hướng ý nghĩa đều vô ích. Con người không còn mang niềm tin vào những gì lâu nay họ từng tin: Thượng đế hay Nhà nước, Tổ quốc hay Con người, Chân lí hay Lịch sử,…. Mọi "nỗ lực khôi phục trật tự đẳng cấp, hoặc những hệ thống ưu tiên nào đó trong cuộc sống, đều vô ích và không thể thực hiện được” (I.P. Ilin). Nhận thức thế giới của con người luôn là nhận thức đầy thiếu khuyết. Nói cách khác, tri thức chỉ là một hiện tượng, được diễn dịch một cách chủ quan bằng giải trình ngôn ngữ discourse, hoàn toàn phụ thuộc vào kinh nghiệm cá nhân. Nó không gì hơn một trò chơi ngôn ngữ. Trong lúc ngôn ngữ như một phương tiện đạt đến "chân lí” cũng không đáng tin cậy nữa…”
Đoạn trích dẫn trên đây có nhiều ý, nhưng tôi xin bạn đọc lưu ý:  "Cảm thức hậu hiện đại là một lối cảm nhận về thế giới như là một hỗn độn, vô nghĩa, bất khả nhận thức; nơi mọi bảng giá trị đều đổ vỡ, mọi định hướng ý nghĩa đều vô ích. Con người không còn mang niềm tin vào những gì lâu nay họ từng tin: Thượng đế hay Nhà nước, Tổ quốc hay Con người, Chân lí hay Lịch sử,…”.

Nếu làm thơ theo một cảm thức "hỗn độn, vô nghĩa, mọi bảng giá trị đều đổ vỡ, mọi định hướng ý nghĩa đều vô ích” và không còn niềm tin nào nữa kể cả chân lý, Tổ quốc thiêng liêng, con người nhân hậu… - thì sẽ sinh ra loại thơ gì nhỉ? Đó là thơ hậu hiện đại. Và quần chúng yêu thơ chân chính của Việt Nam hôm nay và mai sau liệu có chấp nhận cảm thức thơ như trên không. Tôi xin khẳng định là không! Bởi vì nó không xứng đáng được nằm vào gia tài tinh thần của dân tộc Việt Nam ngàn năm văn hiến. Bởi vì cảm thức hậu hiện đại hoàn toàn trái với quan niệm thơ truyền thống như tôi đã nêu ở trên.
Trong bài "Hậu hiện đại & thơ hậu hiện đại Việt
Posted on 21.12.2007 by admin
HẬU HIỆN ĐẠI & THƠ HẬU HIỆN ĐẠI VIỆT

Một phác họa.” Inrasara viết: "…Nên có thể nói, cái đặc trưng nhất của lối viết hư cấu hậu hiện đại là sự phá vỡ trật tự thời gian, sự phân mảnh, tính lỏng lẻo trong liên kết ý tưởng, sự sáng tạo những cặp vòng tương tác,.. thể hiện trong sự rối loạn ngôn từ của kẻ mang chứng bệnh thần kinh phân liệt (schizophrenia)…”
Đến đây ta mới rõ lối viết của nhà thơ hậu hiện đại là… thể hiện trong sự rối loạn ngôn từ của kẻ mang chứng bệnh thần kinh phân liệt. Hay nói cách  khác là họ làm thơ như là trong lúc điên loạn vậy. Do đó ta không lạ khi đọc những lời bình của Inrasara về những vần thơ sau đây của các nhà thơ hậu hiện đại:
"…Văn Cao chết, Trịnh Công Sơn chết kèm theo đó là bao lời điếu văn và diễn văn đau buồn. Đó là điều thiêng liêng. Thế nhưng đã không ít kẻ biến thiêng liêng ấy thành món ăn theo tệ hại. Bùi Chát sẵn sàng nhại âm "hu hu hu” để đùa nghịch lời điếu văn sáo mòn giả tạo ấy. Nếu điếu văn, diễn văn long trọng quá đáng và có nguy cơ bốc mùi, Nguyễn Hoàng Nam bỡn cợt nó cách khác nữa:
những giây phút cuối cùng của con cặc tôi
cũng khá cảm động
Chú thích: theo lời kể lại thì cảm động ngang ngửa với các bài diễn văn.
(Nguyễn Hoàng Nam, "Gia tài”)
Họ là nhà thơ hậu hiện đại….”
"…Khi nhà lãng mạn tin tưởng vào tiền đồ đất nước, vào tương lai tươi sáng của dân tộc, với tiến bộ về mọi mặt thì Đỗ Kh. đưa cái nhìn soi vào cả bề nổi lẫn chìm, sáng lẫn tối.
Cao ốc ta sẽ chọc trời hơn là Hương Cảng
Ta sẽ có nhiều đĩ hơn là Thái Lan
(Đỗ Kh., "Ngũ Long hành khúc”)
Thấy và kể ra khơi khơi vậy thôi. Không trầm trọng hóa vấn đề, nhưng ở đó vẫn mang đầy yếu tố cảnh tỉnh, Đỗ Kh. là nhà thơ hậu hiện đại.
Sâu sắc, lạ biệt, độc đáo, nén, ý tại ngôn ngoại là tiêu đích phấn đấu của mọi nhà thơ hiện đại; các nhà hậu hiện đại làm ngược lại, tất cả được đưa lên bề mặt, lòi ra, trồi lên. Bề mặt này còn thể hiện ngay ở cách chọn đề tài. Đinh Linh thơ về thực đơn, về cơm và cháo, ngôn ngữ và thịt. Bùi Chát nêu "Việc kém hiểu biết trong vấn đề phòng & tránh thai dẫn đến nhiều hậu quả đáng tiếc”. Còn Vũ Thành Sơn tìm hiểu "Lý do tôi không uống cà phê sáng nay”….”
"…Không còn sự lựa chữ kĩ lưỡng, đẹp và thơ mộng đầy tính văn chương! Ngôn ngữ thơ của các nhà thơ hậu hiện đại là lời nói đời thường, hơn nữa – tầng lớp dưới đáy xã hội, chợ búa, vỉa hè. Khái niệm ngôn từ thô thiển hay sang trọng, dơ hay sạch, xấu hay đẹp không còn tồn tại. Ngôn ngữ thơ Đinh Linh ở "Thơ song nghĩa”(13) là ngôn ngữ trắng, trần, truồng, thứ ngôn ngữ đã được lột bỏ mọi lớp áo ẩn dụ hay biện pháp tu từ, giải trừ mọi mượt mà, ẻo lả, truyền cảm. Nó chỉ đúng sự việc, không lung linh hàm nghĩa mà: thẳng, lồ lộ nghĩa đen. Tất cả đều phơi bày ra bề mặt. Chính bởi từ chối hạn từ được cho là sang trọng, cao cấp nên lắm lúc nó rất dung tục và luôn sẵn sàng ở tư thế phạm húy!

Đấy là ngôn ngữ đời thường, rất đời thường. Chúng hiện hữu trong cuộc sống, và thi sĩ hậu hiện đại xử sự bình đẳng với chúng. Vú là vú là vú…Tại sao trong khi thơ "đầy tóc, môi và mắt”, đầy bàn tay, bờ vai,… còn vú lại phải xuất hiện sau tấm voan "đôi gò bồng đảo”? Nó cần được bình đẳng, bình đẳng cả lối phát âm địa phương bị cho là ngọng với lối phát chuẩn. Nguyễn Hoàng Nam từng dùng đến nó, đến Bùi Chát, anh đẩy sự thể tới tận mút của lối nói "ngọng”, gần suốt tập thơ đầu tay của mình:

Tôi lém lước bọt nên tường
tôi yêu những người đàn bà đang nà chuột jưới cống
tôi thấy em mặc cuần nót mười ngàn ba cái mua ở vỉa hè
xách không nàm tôi tốt hơn mỗi khi chủ nhật
tôi nhìn tôi bay chên chời
tôi hành hạ tôi ba bữa
tôi đâm ja
tôi cêu đòi chữ ngĩa…(14)

Bằng sử dụng ngôn ngữ bình dân, đời thường đề cập các vấn đề thường nhật: cơm áo gạo tiền với cái lo lắng, ưu tư mang tính cá thể, đơn lẻ, vụn vặt, nhà thơ hậu hiện đại xóa bỏ khoảng cách phân ranh giới thơ cao cấp và thơ thấp cấp….”

Vốn quen tiếp nhận thơ theo kiểu truyền thống, chúng ta không thể chấp nhận những loại thơ phản văn hoá như trên. Có lẽ phải phải thay đổi quan điểm mĩ học về thơ, thì mới chấp nhận nó nổi chăng? Do đó mà Irasara đã viết:
"…Thay đổi quan điểm mĩ học về thơ, nó buộc lề thói phê bình thơ cũng phải thay đổi.
Một số "tác giả” còn quyết liệt đẩy quan niệm thơ về phía cực đoan hơn nữa! Các khái niệm: hay, đẹp, có hồn, rất thật…, cần phải bị biến mất mà thay vào đó là những khái niệm mới: vui, buồn cười, quái chiêu… Bùi Chát là người đầu tiên ở Sài Gòn phát động: thơ là phải vui, và anh thực hành tất cả tập thơ của mình theo chiều hướng ấy. Từ Xáo chộn chong ngày (2003) cho đến Tháng tư gẫy súng (2006); hay Lý Đợi: Bảy biến tấu con nhện (2003), Trường chay thịt chó (2005); và Phan Bá Thọ: Chuyển động thẳng đứng (2001), Đống rác vô tận (2004) cũng vậy. Một không khí tạp nham, hỗn độn, rối mù mù nhưng… vui vẻ!...”

Tôi xin khẳng định rằng nếu thay đổi mĩ học về thơ theo hướng như thế là đưa thơ đi tới chỗ bế tắc mà thôi. Nếu "Các khái niệm: hay, đẹp, có hồn, rất thật…, cần phải bị biến mất mà thay vào đó là những khái niệm mới: vui, buồn cười, quái chiêu” – thì vô hình trung thơ cổ vũ cho kiểu sống hời hợt mang nặng tính bản năng. Con người chân chính có văn hoá thì  trong cuộc sống chủ yếu thường hướng tới những giá trị tính thần trong sáng, cao cả và thiêng liêng - có ai đề cao lối sống theo nản năng đâu?

Tóm lại tôi xin khẳng định rằng:  Thơ hậu hiện đại Việt Nam đã chối bỏ thơ truyền thống một cách triệt để! Những giá trị thơ tốt đẹp được xây dựng từ hàng ngàn năm trước đó, đều bị quan niệm thơ hậu hiện đại phá phách và hạ bệ hết… Và thực tế trào lưu thơ hậu hiện đại đã bước đầu tạm thành công (đối với một số người) trong việc hạ bệ những giá trị chân chính của thơ truyền thống thiêng liêng. Điều đó thật là đau đớn. Tâm hồn chân chính của mỗi bạn đọc yêu thơ cần phải tăng cường sự miễn dịch đối với những loại thơ như vậy hoặc tương tự như thế!
Để kết thúc bài viết này, tôi xin trích một đoạn trong bài viết "MỘT CÁI NHÌN TOÀN DIỆN” (Ghi chép của Bùi Công Thuấn về Lớp tập huấn công tác lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật tổ chức tại Đồng Nai, đăng trên Phongdiep.net ngày 26 tháng 7 năm 2012) như sau:

"…TS Lê Thành Nghị gửi đến hội nghị những thông tin về tình hình LLPB hiện nay. Ông cũng điểm qua tình hình sáng tác: mở rộng đề tài (như sex, đồng tính, Cải cách Ruộng Đất, chiến tranh, đề tài thế sự, đạo đức, đề tài lịch sử trong văn).Thơ có 3 dòng chính là thơ truyền thống (Hữu Thỉnh, Bằng Việt…), dòng thơ nhiều lời (Nguyễn Quang Thiều, Mai Văn Phấn, Trần Quang Quý…)  và dòng thơ tắc tỵ… Ông bày tỏ rằng "tôi không mấy hy vọng vào dòng thơ tắc tỵ, vì không biết sẽ đưa thơ VN đến đâu. Nếu anh không đi từ văn hóa, thẩm mỹ dân tộc thì anh sẽ không thể tới đâu. Văn học không thể là "không thể hiểu”, chỉ là vọt trào vô thức, tôi cho đó là những tác giả kém bản lĩnh…”
Tuy Hoà,
TRIỆU LAM CHÂU
ĐT: 0983 825502

Thứ Hai, 9 tháng 9, 2013

NHÀ THƠ NGUYỄN TRỌNG TẠO BÀN VỀ “LƯU MANH KẺ CHỢ”


Chợ. Người kẻ chợ. Nói chợ và người kẻ chợ như một văn minh của vùng, của xứ. Chợ là trung tâm giao lưu buôn bán. Chợ văn minh. Chợ buôn gian bán lận. Và cứ thế phát triển thành trung tâm “buôn gian bán lận”… văn minh.
Khi nhỏ tôi ở làng, đi chợ chỉ thấy vui. Vui với sản vật lạ, sản vật quen. Vui với người lạ, người quen. Và mặc cả để khỏi bị lừa. Nhưng dù mặc cả vẫn bị lừa. Vì người quê dù có khôn mấy cũng thua cái khôn của người kẻ chợ. 
Thực ra, chợ không phải là nơi làm chính trị. Nhưng khi nó phát triển, kẻ chợ lại chính là trung tâm kinh tế-chính trị-văn hóa.
Nguyễn Tuân đi thực tế thường lấy chợ làm tâm điểm. Nhưng ông cũng bị chính trị chốn kẻ chợ làm cho hoảng loạn, đến mức phải bức tử tác phẩm của mình, viết bài tự kiểm thảo tựa đề “Nhìn rõ sai lầm”, để “nhận tội” và chối bỏ Vang bóng một thời, ông “thú tội” bị ma dẫn lối, quỷ đưa đường, nên đã viết phần giữa, Chùa đàn, tức tâm sự của nước độc, trước 1945 theo mạch yêu (ma) ngôn… (TK).
Văn Cao về thủ đô làm cách mạng, viết ra Tiến quân ca (sau thành Quốc ca) cũng bị chính trị “giam lỏng” 30 năm, cho đến lúc Đổi mới, mới in ra tập thơ .
Ai đã làm nên những việc ấy chốn kẻ chợ? Đó chính là lực lượng “lưu manh chính trị”.
Bọn lưu manh chính trị không cần biết anh là thù hay là bạn, anh là ngu hay là thông… miễn là “chính” tao “trị” mày nếu mày không giống tao. Đó là bọn ăn cắp tài năng, ăn cắp nhân cách, ăn cắp cái gì mày làm ra mà tao có thể ăn được, cho mày trắng tay, mày èo uột, mày chết đi thì tao mới tồn tại.
Hôm kia, ngồi với một vị cố vấn, anh bảo tôi nên ủng hộ cho ông z. Tôi bảo ông z. cũng hay, cũng gian hùng như Tào Tháo. Tôi hỏi lại anh bạn, hay là nước ta đang cần một Tào Tháo? Anh bạn cười, bảo cần người hơn cả Tào Tháo. Ôi, gian hùng hơn cả Tào Tháo thì nước mình làm gì có?
Lại thấy một lũ súc sinh mấy tuần nay dạng mồm thành loa tố cáo đồng nghiệp với bọn lưu manh. Bọn này mong bọn lưu manh lưu ý đến để có thể kết nạp vào hội lưu manh, nhưng anh cố vấn nói với tôi, cái bọn súc sinh ấy quá giàu trí tửơng bở. Vì bọn súc sinh chưa biết chính trị là gì.
Chính trị phải biết nói năng lịch sự, cao siêu, nói 1 hiểu 10, nói mười lấy 1. Cái bọn súc sinh thì nói nghìn cũng chỉ mong có xíu, một xíu xíu xoa đầu: Chú được đấy. Nhưng sau “được đấy” là gì? Là cứ bật loa cho nó sủa.
Tự dưng quay ngả nào cũng thấy chó sủa. Cổng ngõ nào của nhà người tử tế cũng khóa cả, sao chó cứ sủa. Thì ra không phải chó nhà sủa, mà, chó ngoài cổng sủa.
Cả cái chợ đầy tiếng chó sủa. Mà không phải sủa trăng. Đêm nay tối mịt.
Thì ra chốn kẻ chợ quá nhiều bọn lưu manh tự sủa mình.
Chiều buồn buồn, 6.8.2013
NGUYỄN TRỌNG TẠO blog

Thứ Bảy, 13 tháng 7, 2013

THỦ PHÁP GIỄU NHẠI VÀ BIỂU HIỆN CỦA NÓ TRONG THƠ ĐƯƠNG ĐẠI

            Từ nửa sau thế kỉ XX, chủ nghĩa hậu hiện đại trở thành một trào lưu văn hoá mang tính toàn cầu. Văn học nói chung, thơ hậu hiện đại thế giới nói riêng cũng đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Tất nhiên, ở Việt Nam cũng không ngoại lệ. Tuy không mạnh mẽ, sôi nổi như trên thi đàn nhân loại nhưng sự xuất hiện và phát triển của dòng thơ hậu hiện đại quốc nội một mặt thể hiện quy luật hết sức bình thường trong giao lưu văn hóa, chứng tỏ tinh thần hội nhập mạnh mẽ và thuận chiều của nước ta đối với văn chương thế giới, mặt khác góp phần làm phong phú thêm diện mạo thi pháp và tư duy của văn học dân tộc. Song, để đáp ứng đòi hỏi phát triển của bản thân văn chương, thỏa mãn nhu cầu khai quật nhiều cái mới nhằm mở rộng chân trời sáng tạo, hướng đến tạo ra nhiều “cơn gió lạ” trong thơ đương đại, các tác giả đã không ngừng cách tân “cán bút” của mình. Liên tiếp các thủ pháp nghệ thuật mới xuất hiện song song với việc tận dụng tối đa các thủ pháp đã có sẵn như: giễu nhại, liên văn bản, vắt  dòng, siêu hư cấu sử thi, thơ phân thân, thơ động tác, thơ phụ âm, thơ thị giác, thơ cụ thể… Chúng không phải là sự trú chân mà đã trở thành hình thức tiêu biểu của cái nhìn, trở thành một “nguyên tắc” tổ chức văn bản. Mỗi thủ pháp dưới sự khéo léo tìm tòi, sáng tạo và khai thác triệt để của thi nhân đều định vị được vai trò nhất định của mình. Trong đó, thủ pháp giễu nhại và sự biểu hiện của nó trong thơ đương đại chính là một trường hợp như thế.

1. Thủ pháp giễu nhại trong thơ
            Trong đời sống văn hóa, xưa nay giễu nhại vốn vẫn được coi là một thủ pháp nghệ thuật, không chờ đến khi hậu hiện đại xuất hiện thì thủ pháp này mới ra đời. Đó là thủ pháp bắt chước một cách quá lố một câu thơ, một bài thơ, một đoạn phim, một trích đoạn kịch, một ca khúc, một bức tranh,… (tất nhiên đa phần những tác phẩm bị / được nhại là những tác phẩm nổi tiếng). Đây vốn là thủ pháp đặc biệt sử dụng chất liệu của quá khứ, là “mỏ vàng” của những người thích sáng tạo. Các nghệ sĩ lớn, đặc biệt là các nghệ sĩ hài, vô cùng thích thú khi sử dụng hình thức này nhằm mang đến sự hào hứng, sôi nổi và ngầm gửi gắm nhiều thông điệp khiến người đọc, người xem phải trăn trở và nghĩ suy. Rõ ràng, giễu nhại là một hình thức rất quen thuộc trong đời sống.
            Trong văn chương, giễu nhại cũng là một kỹ thuật dùng sự bắt chước để chế giễu một tác phẩm hoặc một trào lưu, một phong cách nào đó. Nó tồn tại với tư cách là một thủ pháp đã xuất hiện từ những tác phẩm đầu tiên của nền văn học cổ đại. Tiếp đến những thời kỳ văn học sau đó, giễu nhại lại luôn được sử dụng với những sắc thái riêng biệt. Điều đó cho thấy đây không phải là một sản phẩm “mới toe” do các nhà hậu hiện đại sản sinh, mà họ chỉ vận dụng những gì sẵn có để biến tấu theo dụng ý của riêng mình.
Theo hầu hết giới nghiên cứu hiện nay, dù nhìn từ góc cạnh nào thì giễu nhại cũng có hai đặc điểm chính: nhạigiễu, tức bắt chướcchâm biếm. Nhại có nhiều phạm vi khác nhau: văn bản hay khung hình thức của thể loại; trong văn bản lại có nhiều cấp độ khác nhau: từ, câu, đoạn, hay toàn văn. Châm biếm cũng có nhiều đối tượng khác nhau. Trong văn học dân gian, sự châm biếm trong hình thức nhại thường mang tính chính trị. Ví dụ:  Các bài thơ được nhại đăng trong các mục thơ trào phúng trên các báo cũng đều có ý nghĩa phê phán.
Trong phạm vi thuần tuý văn học, nhại có thể nhằm giễu một tác giả hay một tác phẩm, một thể loại, một phong cách, một phương pháp sáng tác, một quan điểm thẩm mỹ, hay, rộng và sâu hơn, những điển phạm và những quy phạm làm nền tảng cho cái được xem là văn chương nói chung. Ở điểm cuối cùng này, giễu nhại mang tính bản thể luận: nó đặt nghi vấn không phải với một hiện tượng mà chủ yếu với bản chất của hiện tượng.
            Như vậy, giễu nhại là một khái niệm rất rộng. Nó hiện diện trong tác phẩm nhưng rất khó nắm bắt. Đó là tất cả những yếu tố đã thẩm thấu trong tác phẩm. Giọng điệu giễu nhại chỉ có thể được lĩnh hội thông qua quá trình đọc, cảm nhận từng câu chữ, từng khoảng trống của tác phẩm. Với từng loại đối tượng phong phú, đa dạng khác nhau, nhà thơ sẽ tạo nên nhiều kiểu nhại khác nhau. Do vậy để xác định yếu tố nhại, chúng ta cần xác định đối tượng nhại và các nguyên tắc hình thức để thực hiện giễu nhại.
Như vậy, bằng hình thức sáng tạo – giễu nhại, người làm thơ nói chung và nhà thơ đương đại nói riêng, đã dùng nó làm vũ khí vô cùng lợi hại để có thể đương đầu không chỉ với tình trạng tha hóa của ngôn ngữ, mà còn với mọi dạng quyền năng. Không phải là độc quyền của một trào lưu hay giai đoạn văn học nào, giễu nhại xuất hiện trong mỗi giai đoạn bước ngoặt như một dấu hiệu tích cực đánh dấu thái độ tự ý thức, tự nhìn lại, và dấu hiệu của sự “giải thiêng” những gì đang được sùng tín, đang được xem là thời thượng. Như đã nói trên, giễu nhại thực hiện trên nhiều cấp độ, với nhiều đối tượng cụ thể khác nhau nên đã mang đến cho thi phẩm những giá trị nhất định mà chúng ta khó có thể phủ nhận.
            Tuy nhiên, thơ đương đại cũng có những vấn đề ta cần nhìn nhận lại sao cho hợp lí. Đó là dùng giễu nhại kết hợp với việc ném bừa bãi ngôn từ tục tĩu vào hoặc lấy giễu nhại để ám chỉ, chửi bới các vấn đề xã hội. Chửi, đó là điều chưa và không bao giờ có thể trở thành nguồn cội sinh ra tuyệt tác, dù thế nào thì "tính văn hóa" vẫn là một trong các tiêu chí cơ bản đo lường phẩm chất con người, đo lường phẩm chất các sản phẩm do con người làm ra. Song, theo ý kiến chủ quan của người viết, thơ giễu nhại đương đại còn được mở rộng nhằm chỉ những thi phẩm sử dụng giọng điệu giễu nhại để phản ánh những vấn đề của đời sống theo hướng tích cực. Bởi những lẽ đó, chúng ta cần có được cái nhìn tỉnh táo khi xác định thủ pháp giễu nhại cũng nhưng vén bức màn của thủ pháp đã được sử dụng để tìm đến nhiều nội dung có giá trị.

2. Biểu hiện của thủ pháp giễu nhại trong thơ đương đại
            Thủ pháp giễu nhại đã từng được nhiều tác giả trong văn học Việt Nam vận dụng bằng một ý thức hết sức rõ ràng. Bà chúa thơ Nôm - Hồ Xuân Hương được đánh giá là người sử dụng rất tài tình thủ pháp giễu nhại, trào tếu theo kiểu liên văn bản. Đây là bài thơ “Cây đánh đu” của Hồng Đức:
                        Bốn cột lang nha cắm để chồng,
                        Ả thì đánh cái ả còn ngong.
                        Tế hậu khổ khom khom cật,
                        Vái hoàng thiên ngửa ngửa lòng.
                        Tám bức quần hồng bay phất phới,
                        Hai hàng chân ngọc đứng song song.
                        Chơi xuân hết tấc xuân dường ấy,
                        Nhổ cọc đem về để lỗ không.
Và đây là bài thơ “Đánh đu” của Xuân Hương:
                        Bốn cột khen ai khéo khéo trồng,
                        Người thì lên đánh kẻ ngồi trông.
                        Trai du gối hạc khom khom cật,
                        Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng.
                        Bốn mảnh hồng quần bay phất phới,
                        Hai hàng chân ngọc duỗi song song.
                        Chơi xuân đã biết xuân chăng tá,
                        Cọc nhổ đi rồi, lỗ bỏ không.
Nếu như bài thơ trong tập Hồng Đức thể hiện một cảm quan cổ xưa, già cả: tìm cái đẹp trong những hình ảnh nghi lễ (tế hậu thổ, vái hoàng thiên). Còn bài thơ của Xuân Hương thì thể hiện một cảm quan mới mẻ, trẻ trung: tìm thấy cái đẹp trong dáng vẻ khỏe mạnh, đa tình của tuổi trẻ (trai du gối hạc, gái uốn lưng ong). Bài thơ trong tập Hồng Đức nghiêm túc, đúng là tả cảnh đánh đu thật, còn thơ Xuân Hương thì tinh quái, đâu phải chỉ mỗi nghĩa đánh đu. Bài thơ của Xuân Hương làm ra chính là để giễu nhại cái cao nhã mà khô khan của thơ Hồng Đức! Điều này quả thật rất phù hợp với phong cách sáng tác của bà. Tương tự, bài “Cái quạt của Hồ Xuân Hương cũng là sự giễu nhại bài “Cái quạtcủa Ban Tiếp Dư, …
Ở truyện ngắn từng góp phần làm nên tên tuổi của Nam Cao – “Chí Phèo”, cũng là một trường hợp thể hiện sâu sắc thủ pháp giễu nhại. Dưới ngòi bút của mình, tác giả đi vào giễu nhại ý thức dân gian, ý thức đại chúng nhằm đánh vào thái độ của người nông dân khi nhìn nhận những người xung quanh, vào thái độ thiếu trách nhiệm về nội dung phát ngôn của mình, chỉ biết cái nhỏ nhặt tầm thường mà không hiểu đại cuộc. Ông đánh vào cả cái nhìn có tính chất xăm soi, chứa đầy định kiến đối với thế giới xung quanh, đánh vào cái nhìn chủ quan của họ. Mặt khác, tác giả cũng đi vào giễu nhại ý thức lãng mạn đương thời. Ý thức lãng mạn luôn cho rằng tình yêu thì phải bay bỗng ngọt ngào, còn ở tác phẩm “Chí Phèo” mối tình Chí Phèo – Thị Nở như một sự lệch quỹ đạo. Họ ồn ào, họ ầm ĩ nhưng vẫn tha thiết yêu đương,…     
          Đến với thơ đương đại, thủ pháp giễu nhại này vẫn được đánh giá cao và phân bố khá đều đặn trong các thi phẩm. Thậm chí, nó còn được coi là một trong những khuynh hướng sáng tác chủ đạo. Người ta có thể dễ dàng thấy được dấu vết giễu nhại trong các sáng tác của Nguyễn Trọng Tạo, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Quang Thiều, Bùi Chát, nhóm Ngựa trời, nhóm Mở miệng...
            Ví như trong thơ của Nguyễn Trọng Tạo, ta nghe một giọng giễu nhại vang lên:
                        Thế giới không còn trăng! Tin nghe rung rợn quá
                        Chú cuội cây đa tan xác giữa thiên hà
                        Không còn Tết Trung thu, không còn đêm phá cỗ
                        Không còn ánh trăng ngà cho thi sĩ làm thơ…
            Trong những câu thơ ấy ta thấy cả tiếng cười và nước mắt, cả tính cách cực đoan và khôi hài của thi sĩ. Hay khi Nguyễn Trọng Tạo nói:
                        Những bông hoa vẫn cứ nở đúng mùa
                        Như thời đã đi qua như thời rồi sẽ đến
Thi nhân đang khéo léo nhại cách nói ngày xưa của Nguyễn Trãi:
                        Kim cổ vô cùng giang mạc mạc
                        Anh hùng hữu hận diệc tiêu tiêu
Quy luật của cuộc đời và vạn vật là vậy, khi con người bừng thức trong một giác ngộ nào đó sẽ bừng dậy một cách sám hối chân thành và đớn đau. Nhà thơ như tuyên bố, chính từ thời điểm này, nhà thơ đã là một con người, một công dân, một tri kỉ hoàn toàn khác. Đây chính là hình thức giễu nhại theo kiểu liên văn bản.
            Nhắc đến dòng thơ giễu nhại, chúng ta không thể bỏ qua cái tên Bùi Chát với tác phẩm tiêu biểu “Mùa hoa đỏ lè”:
                        Dưới màu hoa như lửa cháy khát khao nhậu
                        Anh nắm tay em bước dọc con đường vắng vẻ
                        Chỉ có tiếng ve sôi chẳng cho trưa hè yên tĩnh lặng
                        Chẳng chịu cho lòng ta yên ổn
                        Anh mải mê về một màu mây xa xôi
                        Về cánh buồm bay qua ô cửa nhỏ thó
                        Về cái vẻ thần kì của ngày xưa rồi
                        Em hát một câu thơ cũ sì
                        Cái say mê của thời thiếu nữa tặc
                        Mỗi mùa hoa đỏ về quê
                        Hoa như mưa rơi rơi rụng
                        Cánh mỏng manh tan tác đỏ tươi đẹp
                        Như máu ứa một thời trai trẻ trung
                        Hoa như mưa rơi rơi rớt
                        Như tháng ngày xưa ta dại khờ khạo
                        Ta nhìn vào tận sâu mắt nhau heo
                        Mày thấy lòng đau xót xa
                        Trong câu thơ của em nhỏ
                        Anh không có mắt mẹt
                        Câu thơ hát về một thời yêu đương tha thiết thực
                        Anh đâu buồn mà chỉ tiếc rẻ
                        Em không đi hết những ngày đắm say trưa
                        Hoa cứ rơi ồn ào như tuổi trẻ trai
                        Không cho ai có thể lạnh tanh tưởng
                        Hoa đặt vào lòng chúng ta một vệt đỏ chót
                        Như vết xước của trái tim gan
                        Sau bài hát rồi em lặng im ỉm
                        Cái lặng im rực màu hoa đỏ ối
                        Anh biết mình vô nghĩa đi bên em út
                        Sau bài hát rồi em như thể dục
                        Em của thời hoa đỏ ngày xưa kia
                        Sau bài hát rồi anh cũng thế giới
                        Anh của thời trai trẻ ngày xưa đó.
Chắc hẳn chúng ta ai cũng nhận ra  bài thơ có tên “Thời hoa đỏ lè” trên xuất phát từ bài thơ nổi tiếng “Thời hoa đỏ” của Thanh Tùng đã được Nguyễn Đình Bảng phổ nhạc thành một bài hát quá quen thuộc trong đời sống âm nhạc Việt Nam. Từ tiêu đề cho đến các dòng thơ, Bùi Chát thêm vào một chữ ở sau cùng. Mỗi dòng đều thừa ra, “lạm phát” thêm một chữ. Với kiểu nhại dựa trên sự phong phú và linh hoạt vốn có của tiếng Việt, tác giả thể hiện sắc thái đời thường, thậm chí là thông tục, suồng sã vào trong tác phẩm và làm đảo lộn nhiều giá trị. Thơ ca xưa nay vốn phân biệt rõ ràng ngôn ngữ đời thường và ngôn ngữ thi ca. Thế mà ở đây, ngôn ngữ thi ca lại làm nền cho ngôn ngữ đời thường. Phải chăng, nhà thơ muốn đưa ra yêu cầu của mình về tính dân chủ cho chữ nghĩa?
Nếu như trong sáng tác hiện đại rất ý thức về tác giả, về bản quyền tác giả trên tác phẩm mình. Còn nhiều nhà thơ đương đại lại nghĩ ngược lại: “Chẳng có gì là độc sáng cả. Mỗi sáng tạo là một vi phạm bản quyền, nhiều hay ít, ẩn hay hiện, lộ liễu hay kín đáo, nên họ không kiêng nể sử dụng ngay tác phẩm có sẵn và chế tác trên nó. Chắc chắn sẽ có phản ứng: Thơ như thế mà “khó” gì, cứ kí sinh trên tác phẩm của người khác, cứ xáo bừa mọi hình ảnh, ngôn từ, ý tưởng như nhà cái bầu tôm xóc đĩa làm thì cũng xong cái bài thơ. Và thơ để làm gì, nếu không sáng tạo được thêm thủ pháp mới, phương cách mới để khám phá hiện thực, nói lên tiếng nói sâu sắc, mới lạ để làm rung động lòng người?”. Như vậy, hiện nay đã và đang có nhiều ý kiến khác nhau về mảng thơ giễu nhại.
Nhân đây, chúng ta cũng nên đề cập đến những ý kiến ngược chiều. Ta thấy, thơ giễu nhại lấy được tiếng cười của đông đảo người đọc và cũng khiến chúng ta phải suy tư nhiều về đối tượng được giễu nhại nhằm hướng đến khai thác nội dung ý nghĩa mà tác giả phản ánh. Thế nhưng, đó chưa phải là tất cả. Thơ giễu nhại cũng nhận không ít lời phản bác, những ý kiến trái chiều nhưng cũng xuất phát từ cái lí vốn có xưa nay. Điển hình là bài thơ “Thời hoa đỏ lè” chúng ta vừa nhắc đến ở trên, có nhiều người xem đây là lối viết “đạo văn”  người khác của Bùi Chát. Đúng như Lý Đợi từng phát biểu: “Thơ nhiều khi chỉ là chuyện gây hấn, một chút hài hước, một cú sốc nhận thức, thậm chí là một trò đùa nơi bàn nhậu, chẳng kém phần nhảm nhí.” Song, với kiểu viết bị xem là “đạo văn” ấy, chúng ta đã có thêm một bài thơ nữa cũng khá thú vị. Hai bài thơ “Thời hoa đỏ” và “Thời hoa đỏ lè” ngày nay được nhắc đến song song với nhau nhưng không hề thâm nhập vào nhau, tất nhiên cũng không phải “tuy hai mà một” mà đó là hai tác phẩm hoàn toàn độc lập.
Thơ giễu nhại luôn biến thiên trước sự rào đón của người tiếp nhận, khi trầm khi bổng nhưng “giọng điệu tưng tửng, lộng ngôn mà hài hước” của Bùi Chí Vinh đã thực sự gây ấn tượng mạnh đối với bạn đọc. Với hai tập thơ: “Thơ tình” và “Thơ đời”, tiếp nối “Thơ đạo” và “Thơ quậy”, tác giả đã chạm tới nhiều vấn đề của cuộc sống bằng ngôn ngữ thế tục, táo bạo, phóng đãng, ngang tàng. Ngay cả thơ bán cá, thơ ve chai, thơ xách dép...cũng hóa thành thơ trong giọng  ngạo nghễ giễu nhại mà đôi khi lại hết sức đau đớn:
            Đến nhà gặp bạn hiền bán cá
            Cá rô, cá sặc, cá thòi lòi
            Mà ta thì vốn thằng láu cá
            Thấy cá là chỉ muốn nướng trui.
           
Thấy cá là lại thèm một xị
Ít ly i lít với bạn hiền
Cuộc sống chẳng qua toàn mộng mị
Ma quỷ còn đá cá thần tiên ...
                                                (Thơ bán cá)
Hay:
Anh em ta đi bán ve chai
Thằng thì chột mắt, đứa cụt tay
Râu tóc để lâu thành võ hiệp
Tráng sĩ mà ưa nhắm thịt cầy.

Thực ra anh em ta đẹp trai
Không đẹp trai sao bán ve chai
Cái nhìn giá trị ngang vàng xịn
Con mắt nheo là hốt tiền xài...
                                                (Ve chai hành)
            Như vậy, ngoài hình thức giễu nhại theo kiểu liên văn bản, ta còn bắt gặp phổ biến những bài thơ được viết ra bằng chính trải nghiệm về cuộc sống xung quanh tác giả thông qua giọng thơ giễu nhại như ví dụ trên. Tác giả tinh ý đánh vào tâm lý của độc giả rồi khéo léo chuyển tải những vấn đề của xã hội hiện đại. Tất nhiên, bản thân độc giả cũng đủ nhạy cảm để nhận thấy rõ ngụ ý mà tác giả nói đến qua giọng thơ giễu nhại này.
            Điều này cũng được thi sĩ đất Ninh Thuận – Phú Trạm, bút danh Inrasara, thể hiện trong thơ của mình. Nhà thơ đã táo bạo nhại chính cái thế giới mà mình đang sống:
Tôi sống trong cộng đồng mà mọi thứ đều lùi.
Những đám cây mọc lùi nhỏ dần vào hạt mầm, tận kiếp trước hạt  mầm...
 Những ý tưởng nghĩ lùi về thời tiền sử, bản chép tay mọc thêm trang lật lùi  như thể hết làm thất lạc.
Ngôi nhà cô hàng xóm thuở bé thơ đổ nát được dựng trở lại...
 (Sống lùi)
            Thế giới đã “băng hoại”, không còn giữ những giá trị xưa. Câu thơ vắt từ dòng này sang dòng khác, khổ này sang khổ khác, nhân lên khao khát sống lùi: sống lùi để những cái “đổ nát được dựng trở lại” và gieo mầm cho sự hồi sinh.
 Ở góc nhìn hậu hiện đại, thơ giễu nhại còn được các nhà thơ từ bỏ cái thế giới đóng khung, hướng đến cái thế giới rã rệu, lắp ghép, phân mảnh, đứt đoạn... bằng kĩ thuật xốc ngửa, lắp ráp từ, sử dụng chất humour, pha tạp thể loại... để chạm vào những vấn đề tinh tế và nhạy cảm mà hầu như thơ ca trước đây còn ngại ngùng. Họ đưa vào thơ những ngôn từ tục tĩu để giễu nhại chính vấn đề mà mình đề cập đến.
 Tuy nhiên, cái gì thái quá cũng có mặt hạn chế của nó. Ngôn ngữ gần với đời sống dễ làm cho thơ mất đi chất thơ của nó. Quá nhấn mạnh tính suồng sã, thơ sẽ đông cứng ngay khi mới chào đời, kiểu như:
Yêu rồi mà
 Khỏi phân bua
Nửa đêm vui vẻ chạy đi mua condoms
         (Nắng Chia Nửa Bãi Chiều Rồi - Nguyễn Hoàng Nam)
Ta thử đến với tiếng “ha ha” trong “Bây giờ có người làm thơ như thế” của Nguyễn Đức Thiện để nói thêm về thơ giễu nhại:
Ha, ha, ha, thơ
Là một công nghệ huếnh lên, vo tròn, cưỡng hiếp, bắn chém, và
đồng tính luyến ái.
Đáng thương thay chữ ơi, bay chỉ còn là công cụ
Đáng thương thay, thơ ơi.
Ta chẳng hiểu được bay, và nhất định, bay chẳng hiểu gì ta…
Khoái thật, sướng thật, mê ly thật.
Hay trong bài “Có phải thế không”:
Nhưng quả là tôi dốt
Không biết làm thơ để mọi người chẳng thể hiểu gì
Với những bài thơ như vậy, ngôn ngữ đã thành công cụ để giễu nhại, cười đùa cuộc nhân sinh lấm lem nước mắt. Người ta cũng đã chạy theo phấn son hình thức mà bỏ quên cái bên trong cảm xúc, chạy theo lố lăng để hy vọng nổi tiếng cùng với tai tiếng. “Thơ đang bị bán rẻ gây nạn lạm phát, nạn phân biệt trung tâm với ngoại vi, truyền thống và hiện đại, xô người đọc vào mấy ngã hỗn mang. Thơ đang buổi chợ chiều, một mớ hỗn độn của chợ chiều thi ca (Dư Thị Hoàn). 
          Tương tự, khi đọc một số bài thơ của nhóm Mở Miệng như: Vẫn làm chồng tốt, Vô địch... hay sáng tác của nhóm Ngựa trời, ... Đây chính là mặt hạn chế mà tác giả của những tác phẩm ấy chắc chắn đã cố tình không nhận ra.
 Mặt khác, hậu hiện đại chấp nhận sự phỏng nhại, cắt dán nên một số người tuyên ngôn “đạo thơ” công khai để sinh hạ những nàng thơ “quảng cáo”: “Lactacyd FH, với công thức đặc biệt gồm hai thành phần tự nhiên là Acid lactic và Lactoserum (chiết suất từ sữa), không chỉ giúp rửa sạch, giảm ngứa, loại trừ vì khuẩn gây viêm nhiễm và mùi hôi, mà còn củng cố cơ chế bảo vệ tự nhiên của âm [dương] đạo [tặc]” (Lý do thích hạp cho mọi người trong việc tiêu [chảy] tiền [bạc] hay còn gọi là bài thơ có tên: "Chăm sóc bạn gái hàng ngày" – Bùi Chát). Kiểu thơ giễu nhại quảng cáo như thế không phải là trường hợp hiếm gặp. Đọc những bài kiểu này, người đọc dễ dàng bật cười nhưng khó có thể chấp thuận.
         Tóm lại, khi đi vào quỹ đạo nền thơ thế giới, mấy năm qua các cây bút trẻ tiếp thu nhiều yếu tố mới mẻ, tích cực ở các phong trào thơ Âu Mỹ như cách tân hình thức, thơ ngôn ngữ, thơ trình diễn, đặc biệt cái từ trường đang lôi kéo các nhà văn, thi sĩ đi tìm cái mới là “lối viết hậu hiện đại”. Nhiều tác giả đã thu được một số điều bổ ích trong quá trình sáng tạo, nhiều yếu tố mới có mặt trong thơ của một số nhà thơ trẻ như lối kết cấu đa tầng, hình tượng kỳ ảo - huyễn tưởng, cắt dán- lắp ghép, tục hoá và giễu nhại… Nhiều thủ pháp tân kỳ mới nhập vào từ nền thơ phương Tây, tuy chỉ tồn tại như những khúc dạo đầu nhưng cũng có nhiều hứa hẹn…
            Riêng về thơ giễu nhại, mặc dù có nhiều ý kiến khác nhau, đồng tình và phản đối, hưởng ứng và phê phán, song chúng ta cũng cần khẳng định, thơ giễu nhại đã, đang và hi vọng sẽ góp phần làm phong phú và đa dạng hơn thi đàn văn học dân tộc theo hướng tích cực nhất.