|
Hai tháng nay các báo mạng và báo giấy có rất nhiều bài viết tâm huyết, gay gắt , quyết liệt… chứa chan nỗi bức xúc cao ngất đến tận trời xanh – về việc Hội nhà văn Việt Nam trao giải thưởng thơ 2011 – 2012 cho các tác giả làm thơ cách tân Mai Văn Phấn, Đinh Thị Như Thuý, Đỗ Doãn Phương… Và đặc biệt nhất là sau sự kiện Viện Văn học Việt Nam tổ chức Hội thảo "Thơ Việt Nam hiện đại và Nguyễn Quang Thiều” ngày 28 tháng 6 vừa qua – thì nỗi bức xúc của các quan niệm như đối chọi nhau giữa thơ truyền thống và thơ cách tân – được bùng nổ đến cao trào. Suy ngẫm về sự bùng nổ này, tôi thấy nó nảy ra một số vấn đề chúng ta cần phải quan tâm. |
"TÀI CAO PHẬN THẤP CHÍ KHÍ UẤT - GIANG HỒ MÊ CHƠI QUÊN QUÊ HƯƠNG" Chào mừng các bạn tới Blog Gác Trọ Văn Chương của Th.S Nguyễn Văn Thông (Bút danh: Hoài An) ĐT: 0988001456
Thứ Năm, 20 tháng 6, 2013
Nguyên căn sâu xa của vấn đề
Triệu Lam Châu bình thơ CHU THỊ LINH QUANG
Triệu Lam Châu bình thơ CHU THỊ LINH QUANG
Triệu Lam Châu bình thơ CHU THỊ LINH QUANG
chu thi linh quang
0433831483
0979058375
Chu Thị Linh Quang
Hội nhà văn Hà Nội
MỘT BUỔI SÁNG CUỐI THU
Tôi ngồi lặng trong mùa thu xa vắng
Không nghe hơi thu phả nhẹ làn khói mỏng lên má
Không nghe gió thầm thì nỗi khao khát khó nói lên lời
Không nghe con đường phía trước lặng lẽ trở mình từ chối những bước chân vô tâm,
Không nghe tiếng giọt sương gõ nhịp tí tách đều đều nhẫn nại,
Không nghe tiếng em nhón chân đi lướt qua thảm cỏ xanh mềm,
Không nghe thấy tiếng sóng lòng tôi đang vỗ nhẹ, vỗ rất khẽ,
Không nghe tiếng thở dài của mẹ khi đi chợ về,
Không nghe tiếng vĩ cầm từ ô cửa sổ phía bên kia đường run rẩy vọng lại...
Không nghe tiếng ru con từ cuối làng nghẹn ngào ...
Không nghe tiếng hồ sen đang tàn mà hương còn vương vấn ...
Không nghe thấy gì
ngoài tiếng sột soạt của tờ giấy ly hôn
đang thấp thỏm chờ tôi ký đại lên một chữ.
Em đứng đó, nhưng tôi biết em đã ra đi từ lúc nhón chân lướt qua miếng cỏ xanh mởn mỡ màng
Tôi đứng đó, nhưng em biết tôi đã băng qua sa mạc đang phi ngựa đến vùng đất mới
Cái thằng- tôi ngửa cổ cười sằng sặc
và bóp nát những gì tôi đã không nghe được từ âm thanh cuối thu vào một buổi sáng
Cái con- em ấn chiếc bút bi vào tay tôi
Tôi vung bút ký đại vào buổi sáng cuối thu ấy một chữ: Yes!
15/9/2012
Nhà thơ Triệu Lam Châu
ĐÔI DIỀU CẢM NHẬN VỀ BÀI THƠ
“MỘT BUỔI SÁNG CUỐI THU” CỦA CHU THỊ LINH QUANG
Đêm 23 tháng 9 năm 2012 như thường lệ, tôi vào Trang blog Vũ Nho Ninh Bình, thì gặp ngay bài thơ “Một buổi sáng cuối thu” của nhà thơ Chu Thị Linh Quang. Ngay lần đọc lần đầu tiên, tôi thấy bài thơ này đã gây cho tôi một ấn tượng đặc biệt. Bài thơ đã động đến một vấn đề điển hình trong xã hội ta hiện nay, không kém phần nhức nhối. Đó là vấn đề ly hôn, vấn đề tan rã hạnh phúc gia đình. Theo quan niệm của các nhà triết học và chính trị, gia đình là tế bào của xã hội, là nền tảng xã hội. Vậy tan rã hạnh phúc gia đình, có nghĩa là tan rã tế bào xã hội. Đau đớn lắm chứ.
Theo quan sát của người viết bài này, thời bao cấp kinh tế khó khăn vô cùng, vậy mà tỷ lệ ly hôn của các đôi vợ chồng trẻ ít hơn nhiều so với ngày hôm nay, thời kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Bài thơ “Một buổi sáng cuối thu” của Chu Thị Linh Quang đã vẽ lên một tâm trạng giằng xé hết sức căng thẳng và nghiệt ngã của những người trong cuộc (anh – em) ly hôn vào một thời khắc quyết định trọng đại nhất của hạnh phúc gia đình, tiếp tục tồn tại hay chấm dứt.
Rõ ràng ai cũng vậy thôi, trước khi đi đến quyết định ly hôn, cả hai người vợ và chồng đều phải suy nghĩ và cân nhắc rất nhiều trong một thời gian dài. Trong quá trình cân nhắc ấy, sẽ hiện lên trong tâm tưởng của hai người những ký ức vui buồn, những bất đồng trong lối sống, trong suy nghĩ (mà hồi trẻ mới yêu nhau chưa bao giờ bộc lộ), những ràng buộc tình cảm họ hàng cha mẹ, con cái, rồi cả những danh dự của gia đình trong con mắt của bạn bè hàng xóm, anh em trong cơ quan…những ràng buộc về kinh tế…. Tất thảy là một mớ rối rắm và phức tạp vô cùng…Trong quá trình suy ngẫm, tuỳ thuộc vào những thời điểm tâm trạng khác nhau, rồi cả những tác động khác nhau từ bên ngoài (lời khuyên giải của bạn bè, người thân, nhất là lời cảnh tỉnh của con cái…) – mà lúc này thì ý nghĩ này nổi lên thắng thế, lúc khác thì ý nghĩ kia thắng thế. Nghĩa là rất chao đảo mông lung, nói chung là rất đau khổ về mặt tinh thần. Nhiều người không vượt nổi ngưỡng đau khổ này, nên đã có những hành động tiêu cực hoặc rồ dại liều lĩnh đáng tiếc. Trong thời gian dài suy ngẫm, đắn đo – nếu đức tính hy sinh, nhường nhịn, ý thức trách nhiệm nổi lên thắng thế - thì quyết định không ly hôn nữa; còn nếu cái tôi cá nhân ích kỷ (mà cái này nó giàu ma lực khổng lồ lắm cơ) nổi lên thắng thế - thì không ngần ngại gì nữa, cần phải ly hôn thôi.
Dẫu xã hội Việt Nam thời hiện đại chấp nhận tự do hôn nhân, nhưng tập quán phương đông truyền thống khó chấp nhận những cặp vợ chồng trẻ bỏ nhau như cơm bữa.
Đoạn đầu của bài thơ, là liệt kê những kỷ niệm tinh tế về mùa thu theo cảm quan của tác giả. Đọc lần đầu, tôi cứ tưởng đây là bài thơ nói lên cảm xúc thông thường về mùa thu mà thôi. Suốt cả 11 câu đầu lại toàn những từ “Không nghe… không nghe…” đặt ở đầu câu… như có vẻ lơ đãng rời rạc…làm cho người đọc như cũng bàng quan theo mạch thơ. Thế rồi đến câu
Không nghe thấy gì
ngoài tiếng sột soạt của tờ giấy ly hôn
đang thấp thỏm chờ tôi ký đại lên một chữ.
Người đọc là tôi như giật mình bừng tỉnh. Đúng rồi, vào giờ phút nghiệt ngã trọng đại như vậy – giờ phút phải đặt bút chấp nhận hay không chấp nhận sự
đổ vỡ gia đình – thì còn tâm trạng nào mà nghe thấy những nét tinh tế của những mùa thu đã qua cơ chứ?
Tôi đặc biệt tâm đắc hai từ “ký đại” của nhà thơ Chu Thị linh Quang dùng trong trường hợp này. Ký đại, thể hiện một tâm trạng không làm chủ được mình nữa, không kịp suy nghĩ, đắn đo gì thêm nữa… thôi thì ký đi cho xong vậy… một sự buông xuôi trong chốc lát – mà cái chốc lát ấy lại rất hệ trọng, vì nó quyết định cuộc hôn nhân tiếp tục tồn tại hay tan vỡ mãi mãi.
Chúng ta thường thấy trong cuộc sống: Khi khai lý lịch, khi viết cam đoan, khi làm hợp đồng làm ăn kinh tế hay tuyên bố chính trị của các nguyên thủ quốc gia…các đương sự đều hiểu rõ mọi vấn đề mình sẽ ký và trong lúc ký tên thì tâm trí hết sức sáng suốt và bình tĩnh vô cùng.
Từ thực tế như vậy, nên tôi thấy hai chữ “Ký đại” trong bài thơ này tác giả dùng rất đắc đạo. Nếu cả bài thơ như là một cái kim xâu chỉ để may áo, thì một chữ “đại” ở đây chính là điểm chót sắc của mũi kim xâu niềm cảm xúc, để may một niềm thơ gợi cảm trong lòng độc giả rồi đó. Nếu bài thơ như một cái cột duy nhất nâng đỡ toà nhà của cảm xúc (kiểu như chùa Một cột) – thì chữ “đại” kia chính là điểm nhọn nhất của cái cột nhọn cắm sâu vào đất vậy. Nếu hình dung bài thơ như một đội hình đàn sếu bay trên trời cao theo hình chữ V, thì chữ “đại” ấy như là điểm nhọn của mỏ con chim đầu đàn bay tiên phong lao về phía trước, để dẫn cả đôi hình bay theo mải miết. Hay nói cách khác, hai chữ “ký đại” và đặc biệt là chữ “đại” trong bài thơ này, đã lĩnh hội một nồng độ cảm xúc thật đậm đặc như phát sáng trong lòng nhiều bạn đọc, trong đó có Triệu Lam Châu rồi. Chúng ta cứ thử bỏ chữ “ đại” đi trong trường hợp này mà xem – bài thơ sẽ nhẹ bổng đi hàng mấy lần cơ đấy.
Hoan nghênh nhà thơ Chu Thị linh Quang của chúng ta đã có một câu thơ tuyệt vời Không nghe thấy gì - ngoài tiếng sột soạt của tờ giấy ly hôn-
đang thấp thỏm chờ tôi ký đại lên một chữ… Xin bạn đọc lưu ý: Câu thơ này không phải là một đơn vị độc lập. Do vậy phải đặt nó trong tổng thể của bài thơ, mới thấy hay.
Bài thơ tập trung phản ánh tâm trạng chao đảo, bồng bềnh, không phải là mình ấy ( trước lúc ký đại ) của nhân vật người chồng trong cuộc ly hôn kia. Và rõ ràng người chủ động đưa tờ đơn xin ly hôn trong bài thơ này – chính là người vợ. Chính điều này cũng lại phản ánh một khía cạnh mới của xã hội ta hiện nay: Người phụ nữ giờ đây đã bình đẳng với nam giới hơn xưa nhiều lắm. Họ có cá tính, mạnh mẽ và quyết đoán hơn các bà, các mẹ và các chị của họ thời trước – nhất là trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình.
Song thực tế xưa nay chúng ta vẫn thấy: Sau khi ly hôn, người đàn ông nhiều khi còn lấy được những cô vợ trẻ xinh đẹp hơn rất nhiều so với người vợ cũ của mình. Người phụ nữ sau khi ly dị chồng, thật khó lấy được một ngưòi đàn ông hơn chồng cũ. Bởi vì vẻ đẹp hình thức bên ngoài của người đã từng có chồng, thường không thể bằng những cô gái xinh chưa chồng. Do những lý do trên, mà thực tế người đàn ông thường chủ động làm đơn xin ly hôn.
Trong lúc chuẩn bị ký đại vào tờ ly hôn do người vợ đưa lại, anh chồng cảm thấy lờ mờ rằng:
Em đứng đó, nhưng tôi biết em đã ra đi từ lúc nhón chân lướt qua miếng cỏ xanh mởn mỡ màng
Tôi đứng đó, nhưng em biết tôi đã băng qua sa mạc đang phi ngựa đến vùng đất mới
Vậy là thể xác của em còn đứng đó, nhưng hồn em thì ra đi từ lúc nhón chân lướt qua miếng cỏ xanh mởn mỡ màng kia rồi. Hồn em đã từ bỏ cuộc hôn nhân này mất rồi. Rồi người chồng cũng lờ mờ nhận thấy ý nghĩ của người vợ rằng: Anh đứng đó, nhưng em biết anh đã băng qua sa mạc đang phi ngựa đến vùng đất mới.
Đúng là người vợ nghĩ vậy, nhưng cô đã nghĩ sai mất rồi. Thực ra anh đang mất cả hồn bởi tờ giấy ly hôn đang sột soạt kia kìa. Anh đâu có nghĩ đơn giản như cô?
Thế rồi sự giằng xé bao nỗi niềm trong tâm trạng của người chồng đạt tới đỉnh điểm, với khổ thơ sau đây:
Cái thằng- tôi ngửa cổ cười sằng sặc
và bóp nát những gì tôi đã không nghe được từ âm thanh cuối thu vào một buổi sáng
Cái con- em ấn chiếc bút bi vào tay tôi
Người chồng dẫu trong trạng thái như không làm chủ được mình trong lúc chuẩn bị ký đại vào tờ ly hôn, nhưng vào thời khắc phải ký – thì anh cũng cảm nhận được vậy là đổ vỡ hoàn toàn rồi. Bỗng nhiên anh ngửa cổ cười sằng sặc. Đây là một tiếng cười đau khổ thật sự, nhưng lại như một phản ứng tự nhiên của tâm trạng kiểu như xã giao, một tiếng cười tự vệ để lòng mình khỏi phải khổ đau thêm nữa, một tiếng cười như tự trấn an lòng mình “không sao đâu”. Nhưng đến nước này, thì còn biết làm thế nào nữa hả trời?
Hiện lên trong bài thơ này là một người chồng có tâm trong sáng và timh tế trong cuộc sống tình cảm đối với con người cũng như đối với thiên nhiên. Trong ký ức cuộc sống đã qua của hai vợ chồng, họ đã từng có chung những dịp cùng:
… ngồi lặng trong mùa thu xa vắng
… nghe hơi thu phả nhẹ làn khói mỏng lên má
… nghe gió thầm thì nỗi khao khát khó nói lên lời
… nghe con đường phía trước lặng lẽ trở mình từ chối những bước chân vô tâm,
….nghe tiếng giọt sương gõ nhịp tí tách đều đều nhẫn nại,
….nghe tiếng em nhón chân đi lướt qua thảm cỏ xanh mềm,
…. nghe thấy tiếng sóng lòng tôi đang vỗ nhẹ, vỗ rất khẽ,
…. nghe tiếng thở dài của mẹ khi đi chợ về,
….nghe tiếng vĩ cầm từ ô cửa sổ phía bên kia đường run rẩy vọng lại...
….. nghe tiếng ru con từ cuối làng nghẹn ngào ...
…. nghe tiếng hồ sen đang tàn mà hương còn vương vấn ...
Đó là những giá trị tinh thần rất đẹp đẽ và cao quý, đã từng ăn sâu trong tiềm thức của hai người. Rồi mai kia chúng sẽ trở nên thiêng liêng, vì đấy là kỷ niệm về một thời say đắm vô cùng. Chúng đã thành máu thịt rồi. Dẫu lúc sắp ký đại vào tờ giấy ly hôn, anh không nghe những điều trên, nhưng chúng đã sống trong tiềm thức bấy lâu nay, chúng là một phần trữ lượng tình cảm của hai người những ngày đẹp đẽ đã qua kia đấy. Chính cái trữ lượng tình cảm thiêng liêng ấy đã làm cho anh chao đảo và không muốn ký chút nào. Đúng như thế. Rõ ràng đúng như vậy. Cái tâm sáng của anh mách bảo thế!
Trong thực tế, tâm trạng của con người luôn vận động và biến đổi như đồ thị hình sin, lúc vồng lên lúc hạ xuống. Có những lúc ta chính là ta, nhưng đôi khi cũng có lúc ta không phải là ta đâu! Tôi muốn nói lúc ta chính là ta – đây là ta thực sự, ta vĩnh hằng, ta bản chính duy nhất. Còn những lúc ta không phải là ta – đó là ta bản sao mất rồi, là ta phẩy ( nếu ta là X, thì ta phẩy sẽ là X’ đó). Tương tự như thế, có người và người phẩy nữa cơ.
Do đó Cái thằng- tôi ngửa cổ cười sằng sặc
và bóp nát những gì tôi đã không nghe được từ âm thanh cuối thu vào một buổi sáng – chính là tôi bản sao, tôi phẩy, chứ đâu phải tôi thật sự và duy nhất bản chính đâu!
Và Cái con- em ấn chiếc bút bi vào tay tôi kia nữa, cũng là em bản sao, em phẩy, hoàn toàn không phải em thật sự và duy nhất bản chính đâu!
Tinh thần chung của bài thơ, tác giả ngầm gửi gắm là không ký. Việc ký có diễn ra chăng nữa, cũng chỉ là những người phẩy ký với nhau thôi, mà cũng chỉ là ký đại thôi đấy!
Và lạ lùng thay, người chồng ký vào tờ giấy ly hôn đâu phải tên mình, mà anh ký chữ: Yes.
Chữ này vừa có nghĩa là “vâng”, vừa có nghĩa là “có”. Đây là kết thúc mở của bài thơ – nghĩa là có nhiều cách hiểu tuỳ theo cảm nhận của người đọc. Riêng tôi, Triệu Lam Châu lại muốn hiểu rằng: Vâng, tôi xin khẳng định rằng chúng ta đã từng có những kỷ niệm đẹp như thế và buổi sáng thu nay, dẫu thế nào đi nữa, cũng sẽ trở thành một dấu ấn không bao giờ phai đâu, em nhé!
Đây là một bài thơ văn xuôi, không vần, nhưng nội dung rất hiện đại và rất hay của nhà thơ Chu Thị Linh Quang. Xin cảm ơn nhà thơ và chúng ta chờ mong chị có nhiều tác phẩm hay hơn nữa trong tương lai.
Tuy Hoà, đêm 6 tháng 10 năm 2012
trieulamchau@gmail.com
ĐT: 0983 825502
Đã đăng trên vu nho ninh binh
Thơ TRIỆU LAM CHÂU
Thơ TRIỆU LAM CHÂU
TRIỆU LAM CHÂU
ÁNH SAO RỪNG THU NGA
Mùa thu Lêvitan *
Vàng cả vùng rừng Xibia buổi ấy
Anh cùng em lộ trình mê mải
Bao vỉa quặng ngầm như cũng thở phập
phồng
Em còn nhớ không
Ơi cô gái tóc vàng quyến rũ
Những buổi hoàng hôn mờ núi lá
Phía cuối trời biêng biếc ánh sao
xa…
Ôi ánh sao rừng thu Nga
Như tiếng thầm của lòng em có phải
Nói những điều hồn không nói nổi
Hơi thở đằm phong vị nước Nga sâu
Ngôi sao xanh đậu xuống mái đầu
Em bỗng chốc thành nàng công chúa
Ảo huyền như trong câu chuyện cổ
Anh thành hoàng tử đón đưa em
Hoàng tử ngày nay không có ngựa xe
riêng
Chỉ có tấm lòng người địa chất
Gương mặt, nụ cười em hiền thục
Ánh núi Xibia chan chứa tâm can
Ngọn lửa rừng ta nhóm giữa ngàn
Quyện hương núi Xibia ngây ngất
Em hát những lời ca trong trẻo nhất
Gửi vào muôn phím của đàn anh
Tình Xibia mênh mang
Hồn thu Nga ấm nồng sâu thẳm
Nay anh ngóng mãi trong thầm lặng
Lòng bỗng nghe một áng mơ vàng…
Miền rừng Nga, tháng 8 năm 1974 –
Cao Bằng 2011
*I. Lêvitan (1860 – 1900): Hoạ sĩ
Nga rất nổi tiếng với bức tranh “Mùa thu vàng”,
người thể hiện thành công nhất nét
huyền diệu của nùa thu Nga.
GAGARIN QUA CẦU TREO SÔNG
MĂNG
(Kính viếng hương hồn Gagarin, nhà
du hành
vũ trụ đầu tiên của loài người)
Từng nhịp bước bồi hồi
Gagarin qua cầu treo sông Mãng (1)
Một dòng nước trong lành lấp lánh
Đôi bờ xanh ngát bóng tre xanh
Vẫn cảm giác bồng bềnh
Như khi bay trên tàu vũ trụ
Sao hôm nay ngỡ ngàng đến thế
Bước qua cầu treo nhỏ dập dềnh
Ôi chiều mộng Cao Bằng
Cũng dịu nhẹ như miền ôn đới
Thoáng nghe một nét gì ngời ngợi
Chợt hiện ra đã vội mông lung
Bất ngờ đến lạ lùng
Anh bỗng thấy giữa dòng sâu ấy
Một quả cầu da cam chín mẩy
Cứ xoay tròn xao xuyến cả lòng sông
Cung đàn sông rung vang
Giai điệu tính dập dìu cánh gió (2)
Tiếng lượn sli mênh mang mờ tỏ (3)
Anh bần thần ngơ ngác, chiêm bao…
Đôi bờ tre rì rào
Như mạch gió qua rừng phong buổi ấy
Đàn Balalaica sôi trào run rẩy
Bản tình ca bao lứa gái trai Nga
Gagarin thầm hát lên lời ca
Theo điệu tính ngọt ngào say đắm
Hoà với tiếng lượn sli đằm thắm
Tình khúc nồng lai láng Vônga
Mai ngày anh lên vì sao xa
Sứ giả của loài người trái đất
Những khám phá loé lên trong tiềm
thức
Có nét ngời sông Mãng chiều nay…
Cao Bằng 1992
(1) I.A. Gagarin (1934 – 1968): Công
dân Nga Xôviết,
Người đầu tiên của nhân loại bay vào
vũ trụ ngày 12-4-1961
(2) Tính: Nhạc cụ dân tộc Tày
(3) Lượn sli: Dân ca Tày
NGUYỄN TUÂN LÀM QUAN
LANG
(Kính viếng hương hồn nhà văn Nguyễn
Tuân,
nhân sinh nhật của Người, 10 – 7 –
1910)
Bấy nhiêu lần làm phó quan lang *
Nay già làng cho Nguyễn Tuân làm
trưởng
Dẫn Đoàn nhà trai sang mường bên
cạnh
Mừng rước cô dâu trẻ về nhà
Vẫn nét thân quen từ các cụ ngày xưa
Thoáng thấy nhà trai, người ta liền
đóng cửa
Trưởng quan lang phải trổ tài thơ
phú
Bao người nghe tâm đắc, xuýt xoa
khen
Rồi mọi người bỗng thấy ngỡ ngàng
hơn
Vị quan lang này trông uyên bác thế
Giọng ngâm sao mà trong trẻo lạ
Dẫu có âm chưa chuẩn điệu Tày – Nùng
Thơ xin mở cửa nhà, thơ đáp chén
rượu nồng
Thơ bước lên sàn, thơ xin trải chiếu
Cả thần núi cũng bay về đây đậu
Nghe những vần thơ ứng khẩu, Nguyễn
Tuân ngâm…
Rồi đỉnh ngàn mọc ánh sao hôm
Thơ đám cưới nồng say không dứt
Ai cũng muốn dâng Nguyễn Tuân một
cốc
Vị quan lang đáng kính, tài năng
Nguyễn Tuân thành người của bản
làng…
* Quan lang: Trưởng Đoàn nhà trai
sang nhà gái
rước dâu. Theo phong tục người Tày:
Những người
đàn ông đứng tuổi, mẫu mực, có tài
ứng khẩu thơ và
ngâm thơ, mới được mời làm quan
lang.
QUA ĐÈO KIEO PIT
Từ thác Nặm Thoong lên đèo Kiéo Pỉt
Nhìn về phía đông: Núi biếc giăng
thành
Bỗng lại thấy gương mặt buồn quyến
rũ
Thuở xa mờ… huyền ảo sương giăng…
Em ở nơi nào, mà vụt đến cùng anh
Qua thăm thẳm tháng, năm… thăm thẳm
núi
Như một ánh sao chiều sắp chìm vào
xa vợi
Nửa le lói bên này… nửa le lói bên
kia…
Bỗng vụt lên đột khởi say mê
Như tia chớp mùa hè chói chang nắng
gió
Như một chút heo may đằm hơi thở
Gương mặt mờ thoảng nhẹ nét cười
buồn
Lòng mờ sương, hay đèo núi mờ sương
Mà giọt lệ bỏng tràn nơi khoé mắt
Hồn như bay… lại thấy lòng hiu hắt
Gần gũi vô cùng… mà sao cứ mãi lìa
xa?
Muốn gọi thật to, cho vang động rừng
già
Cho bao nỗi mờ sương tan biến hết
Cho ánh buồn không còn vương trên
mặt
Như ngày nào thuở ấy tinh khôi
Ngả hai tay đón ngày cũ xa ngời
Chỉ thấy sương ngàn đậu lòng tay
nặng trĩu
Gương mặt buồn lại khuất vào sau núi
Lòng lại mong phía ấy có trăng lên…
Cao Bằng, ngày 6 tháng 8 năm 2009
Khuổi Slưa mình chan chứa ánh sao
đôi
Thuở ấy ta đèo nàng bằng xe đạp
Đi qua dốc núi khuổi Slưa
Mỗi ngày một buổi đến trường
Hăm hở...
Rồi một mùa xuân lặng thầm dè dặt
Bụi hoa kim anh chân dốc Khuổi Slưa
Nở bùng hoa trắng muốt
Như một nỗi đợi chờ...
Ta dừng xe, hái một nụ ngời thơm
ngát
Phập phồng cài lên mái tóc của nàng
Em nghiêng đầu hái một búp hoa xinh
Cài túi ngực trái tim ta thấp thỏm
Mái tóc mượt mây trời
Ánh mắt nàng nồng đượm
Của non ngàn buổi ấy Khuổi Slưa
Theo ta đi cùng trời cuối bể...
Hơn bốn mươi năm chốc lát đã trôi
qua
Một mình ta trở về đơn lẻ
Chiều Khuổi Slưa vẫn nồng nàn như
thế
Mà bụi hoa kim anh thuở ấy đâu rồi?
Kìa... chao ôi...
Chỉ còn hai nụ ngời như giọt lệ
Đôi ngôi sao của đất nồng sương gió
Mọc từ những nỗi niềm thuở cũ xa xăm
Ta giơ tay định hái lấy một bông
Lại bất chợt rùng mình
Không nỡ để bông kia đơn lẻ
Khuổi Slưa mình chan chứa ánh sao
đôi...
TÁC GIẢ GỬI BÀI
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)