Thứ Hai, 1 tháng 12, 2025

TÌNH HUỐNG TRUYỆN “CUỘC ĐI SĂN KÌ LẠ” TRONG TRUYỆN NGẮN “ MUỐI CỦA RỪNG”



Thái Thị Thanh Huyền


I. Khái quát chung về tình huống truyện


Nguyễn Huy Thiệp không thuật lại cả một đời người mà chỉ chọn một ngày duy nhất, ngày ông Diểu mang khẩu súng hai nòng mới tinh con trai gửi về để vào rừng săn. Một cái cớ rất đỗi bình thường: tuổi già, súng mới, rừng xuân đẹp... đủ để khơi lên cảm giác “đáng sống”, đủ để một người đàn ông sáu mươi muốn thử thời vận. Nhưng chính cái cớ vô hại ấy lại mở ra một cuộc va đập dữ dội giữa con người với thiên nhiên, giữa bản năng bạo liệt và phần nhân tính yếu mềm. Đây là kiểu tình huống truyện đặc trưng của Nguyễn Huy Thiệp: từ cái rất nhỏ làm phát lộ cái rất lớn, từ việc rất thường đẩy nhân vật tới bờ vực của sự phán xét đạo đức.


II. Rừng xuân: Không gian thiêng liêng bị xé đôi bởi ý đồ sát sinh


Sau Tết một tháng là thời điểm rừng đẹp nhất. Thiên nhiên hiện lên với vẻ trang trọng và tình cảm: rừng “xanh ngắt và ẩm ướt”, mưa xuân mỏng như lụa, không khí “trong lọc”, lớp lá mục ải mềm dưới chân. Tất cả đều gợi nên một sự thanh sạch, một sự mềm hóa tâm hồn, như thể thiên nhiên đang cử hành nghi lễ mùa xuân của mình. Ấy vậy mà giữa dòng thanh khiết ấy, ông Diểu lại xuất hiện với súng hai nòng, áo quần đi săn và một ý định rất kiên quyết: bắn cho được “con át chủ bài”. Sự đối lập giữa vẻ đẹp thiêng liêng của rừng xuân và dã tâm sát sinh của con người tạo nên nghịch lí đầu tiên của truyện. Thiên nhiên là nơi phù hợp để con người được gột rửa, nhưng ông Diểu lại biến nó thành trường săn, nơi một sinh linh sẽ phải đổ máu.


III. Diễn biến kì lạ: Thợ săn đánh mất quyền lực của chính mình


Ban đầu, mọi thứ có vẻ rất “đúng bài”. Ông Diểu tính toán hướng gió, luồn lách vào vị trí, quan sát “khỉ gác”, chờ đúng thời điểm. Ông thậm chí còn gán cho con khỉ đực đủ loại tội danh mang màu sắc nhân loại hoá: “bạo chúa”, “phóng đãng”, “nhà lập pháp bẩn thỉu”, như thể cần biện minh cho việc sát hại nó. Khi bóp cò bắn trúng con khỉ đực, ông tin rằng mình đã thành công. Nhưng từ đây, mọi thứ thay đổi. Con khỉ cái quay lại, vừa sợ hãi vừa đau đớn. Con khỉ con bất thình lình túm lấy dây súng và lao xuống vực, kéo theo toàn bộ vị thế thợ săn của ông Diểu. Ông trở nên hoảng loạn, chạy cuống cuồng đuổi theo, chỉ để chứng kiến tiếng rú thảm khốc vang lên từ vực sâu. Từ một kẻ chủ động, ông Diểu trở thành một kẻ bị động, bị đẩy vào thế yếu bởi chính hậu quả hành động của mình. Cuộc đi săn kì lạ trước hết là sự đảo ngược quyền lực: người có súng lại hoảng hốt hơn loài thú không có gì ngoài bản năng sinh tồn.


IV. Tình huống đối mặt : Từ kẻ đi săn trở thành kẻ mang nợ


Từ lúc khỉ con rơi xuống vực, cuộc đi săn mất hết ý nghĩa “thú vui đàn ông”. Tiếng rú ấy khiến ông kinh hãi theo nghĩa đạo đức. Hõm Chết phủ đầy sương mù gợi nên cảm giác bị thiên nhiên phán xử. Đỉnh điểm của bước ngoặt là cảnh ông Diểu leo lên mỏm đá để cứu con khỉ đực bị thương. Trên núi đá trơn trượt, ông trần truồng, vắt kiệt sức để bế con vật. Ông tháo nốt chiếc quần lót cuối cùng để băng bó cho nó. Hình ảnh ấy có giá trị biểu tượng mạnh: ông Diểu như lột bỏ hết lớp giáp trụ, lớp kiêu hãnh và lớp tàn nhẫn của bản thân, chỉ còn lại một con người trần trụi đối diện với một sinh linh đang đau đớn. Cuộc đi săn, từ chỗ là hành trình chinh phục, giờ trở thành hành trình chuộc lỗi đầy gian nan. Ông Diểu không còn săn ai, ông đang cứu kẻ mình đã làm bị thương, tức là đang đối mặt với chính tội lỗi của mình.


V. Hoán đổi vai: Con người bị loài khỉ “phản chiếu”


Khi ông Diểu mang con khỉ đực xuống núi, khỉ cái lẽo đẽo theo sau. Nó vừa cảnh giác vừa đau đớn, vừa sợ hãi vừa quyết liệt đòi lại bạn đời. Chính nó đã khiến ông Diểu nhận ra: ông không thể vừa tỏ ra nhân đạo vừa cố giữ lấy“chiến lợi phẩm”. Khi thả con khỉ, ông bất giác tránh đường về, sợ ánh mắt thiên hạ chứng kiến cảnh ông trần truồng, tay trắng, không súng, không thành tích. Nhưng đó lại là khoảnh khắc ông đối diện sâu nhất với chính bản ngã. Hoa tử huyền nở, loài hoa ba mươi năm mới xuất hiện một lần, như một dấu hiệu thanh tẩy. Nó báo hiệu rằng khi con người biết hạ giáp, biết thương xót, biết dừng tay, thiên nhiên sẽ mở cho họ một lối đi khác.


VI. Thất bại của cuộc đi săn và chiến thắng của nhân tính


Xét theo nghĩa thông thường, cuộc đi săn thất bại thảm hại. Ông mất súng,rách quần áo, kiệt sức, không có con mồi nào đem về. Nhưng chính thất bại ấy lại dẫn đến một chiến thắng mang tính bản chất và lâu bền hơn, chiến thắng phần thú trong con người. Ông nhận ra cái đau của sinh linh khác, nhận ra sự ích kỉ và bạo liệt của bản thân, nhận ra rằng điều đáng sợ nhất không nằm trong rừng mà nằm trong chính tâm hồn con người. Khi quyết định thả con khỉ đực, ông thực hiện hành động nhân bản nhất trong cả cuộc đời săn bắn của mình. Ông trở về giữa mưa xuân, “trần truồng và cô đơn”, nhưng lại nhẹ nhõm, sạch sẽ theo một nghĩa tinh thần sâu xa. Lột bỏ “giáp trụ” bên ngoài, ông đồng thời trút bỏ lớp hung bạo bên trong.


VII. Giá trị nghệ thuật của tình huống “cuộc đi săn kì lạ”


Tình huống truyện này đạt hiệu quả nghệ thuật cao nhờ tạo được độ căng tâm lí sắc nét: con người bị đặt giữa bản năng sát sinh và tiếng gọi của nhân tính. Nguyễn Huy Thiệp khai thác triệt để sự đối chiếu giữa người và thú, để lộ ra nghịch lí: loài thú vốn bị coi thấp kém, lại hiện lên thủy chung, nghĩa tình; còn con người tự nhận văn minh, lại lộ ra tàn nhẫn, ích kỉ. Thiên nhiên được dùng như một đối trọng đạo lí, nơi con người vừa bị phán xét vừa được thanh lọc. Cấu trúc đảo ngược khiến thợ săn trở thành kẻ bị săn bởi chính lương tâm của mình. Những chi tiết biểu tượng như Hõm Chết, quần lót, hoa tử huyền, mưa xuân... đều góp phần làm cho tình huống truyện mang chiều sâu triết lí và sức ám ảnh rất riêng.


VIII. Kết luận


Tình huống “cuộc đi săn kì lạ” trong truyện của Nguyễn Huy Thiệp không chỉ là một biến cố tự nhiên mà là một phép thử đạo đức đầy tinh tế. Từ một chuyến săn tưởng chừng vô tư, nhà văn dẫn người đọc vào hành trình khám phá những lớp sâu kín nhất trong tâm hồn con người: bản năng sát hại, sự ngạo mạn, nỗi sợ hãi, lòng trắc ẩn, và cuối cùng là khả năng tự thanh lọc. Cuộc đi săn thất bại về mặt kỹ thuật, mất súng, mất thế, trần trụi và kiệt quệ, nhưng lại thành công ở tầng sâu: nó khiến ông Diểu chiến thắng phần thú trong chính mình, đối diện với bóng tối nội tâm và bước ra khỏi rừng với tâm hồn tinh sạch hơn. Bằng tình huống truyện đầy nghịch lý, Nguyễn Huy Thiệp đã gợi ra câu hỏi nhức nhối nhưng cần thiết: đâu là ranh giới giữa con người và thú vật, và liệu con người có thực sự “cao hơn” khi họ chưa vượt qua được bản năng bạo liệt của chính mình? Chính câu hỏi ấy làm cho truyện ngắn trở nên ám ảnh, để lại dư vang lâu dài và khẳng định tầm vóc tư tưởng của nhà văn.


📍Bài viết của Ths. Thái Thị Thanh Huyền ngày 24/11/2025.

Nguồn: vanchuongmandam.com

Ảnh sưu tầm

Thứ Năm, 20 tháng 11, 2025

CHUYÊN MỤC: CHUYÊN VĂN VÀ HƠN THẾ NỮA] PHONG TRÀO THƠ MỚI (1932 - 1945)

 [


Trong những năm đầu thập kỷ thứ ba của thế kỷ trước xuất hiện một dòng thơ ca thuộc khuynh hướng lãng mạn. Đó là Thơ mới (hay còn gọi là Thơ mới lãng mạn). Thơ mới là một cuộc cách mạng thơ ca trong tiến trình lịch sử văn học dân tộc ở thế kỷ 20. Sự xuất hiện của Thơ mới gắn liền với sự ra đời của Phong trào thơ mới 1932-1945. Phong trào thơ mới đã mở ra “một thời đại trong thi ca”,  mở đầu cho sự phát triển của thơ ca Việt Nam hiện đại. 


I. Hoàn cảnh lịch sử xã hội.

Một trào lưu văn học ra đời bao giờ cũng phản ánh những đòi hỏi nhất định của lịch sử xã hội. Bởi nó là tiếng nói, là nhu cầu thẩm mỹ của một giai cấp, tầng lớp người trong xã hội. Thơ mới là tiếng nói của giai cấp tư sản và tiểu tư sản. Sự xuất hiện của hai giai cấp này với những tư tưởng tình cảm mới, những thị hiếu thẩm mỹ mới cùng với sự giao lưu văn học Đông Tây là nguyên nhân chính dẫn đến sự ra đời của Phong trào thơ mới 1932-1945. 

Giai cấp tư sản đã tỏ ra hèn yếu ngay từ khi ra đời. Vừa mới hình thành, các nhà tư sản dân tộc bị bọn đế quốc chèn ép nên sớm bị phá sản và phân hóa, một bộ phận đi theo chủ nghĩa cải lương. So với giai cấp tư sản, giai cấp tiểu tư sản giàu tinh thần dân tộc và yêu nước hơn. Tuy không tham gia chống Pháp và không đi theo con đường cách mạng nhưng họ sáng tác văn chương cũng là cách để giữ vững nhân cách của mình.

Cùng với sự ra đời của hai giai cấp trên là sự xuất hiện tầng lớp trí thức Tây học. Đây là nhân vật trung tâm trong đời sống văn học lúc bấy giờ. Thông qua tầng lớp này mà sự ảnh hưởng của các luồng tư tưởng văn hoá, văn học phương Tây càng thấm sâu vào ý thức của người sáng tác.


II. Các thời kỳ phát triển của Phong trào thơ mới .

Thơ mới được thai nghén từ trước 1932 và thi sĩ Tản Đà chính là người dạo bản nhạc đầu tiên trong bản hòa tấu của Phong trào thơ mới. Tản Đà chính là “gạch nối” của hai thời đại thơ ca Việt Nam, được Hoài Thanh - Hoài Chân xếp đầu tiên trong số 46 tên tuổi lớn của Phong trào thơ mới. Và đến ngày 10-3-1932 khi Phan Khôi cho đăng bài thơ “Tình già” trên Phụ nữ tân văn số 22 cùng với bài tự giới thiệu “Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ” thì phát súng lệnh của Phong trào thơ mới chính thức bắt đầu.

 Có thể phân chia các thời kỳ phát triển của Phong trào thơ mới thành ba giai đọan:


1. Giai đoạn 1932-1935

Đây là giai đoạn diễn ra cuộc đấu tranh giữa Thơ mới và “Thơ cũ”. Sau bài khởi xướng của Phan Khôi, một loạt các nhà thơ như Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Huy Thông, Vũ Đình Liên liên tiếp công kích thơ Đường luật, hô hào bỏ niêm, luật, đối, bỏ điển tích, sáo ngữ …Trong bài “Một cuộc cải cách về thơ ca” Lưu Trọng Lư kêu gọi các nhà thơ mau chóng “đem những ý tưởng mới, những tình cảm mới thay vào những ý tưởng cũ, những tình cảm cũ”. Cuộc đấu tranh này diễn ra khá gay gắt bởi phía đại diện cho “Thơ cũ” cũng tỏ ra không thua kém. Các nhà thơ Tản Đà, Huỳnh Thúc Kháng, Hoàng Duy Từ, Nguyễn Văn Hanh phản đối chống lại Thơ mới một cách quyết liệt. Cho đến cuối năm 1935, cuộc đấu tranh này tạm lắng và sự thắng thế nghiêng về phía Thơ mới.

Ở giai đoạn đầu, Thế Lữ là nhà thơ tiêu biểu nhất của Phong trào thơ mới với tập Mấy vần thơ (1935). Ngoài ra còn có sự góp mặt các nhà thơ Lưu Trọng Lư, Nguyễn Nhược Pháp, Vũ Đình Liên …


2. Giai đoạn 1936-1939

Đây là giai đoạn Thơ mới chiếm ưu thế tuyệt đối so với “Thơ cũ” trên nhiều bình diện, nhất là về mặt thể loại. Giai đọan này xuất hiện nhiều tên tuổi lớn như Xuân Diệu (tập Thơ thơ -1938), Hàn Mặc Tử (Gái quê -1936, Đau thương -1937), Chế Lan Viên (Điêu tàn - 1937), Bích Khuê (Tinh huyết - 1939), … Đặc biệt sự góp mặt của Xuân Diệu, nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới”, vừa  mới bước vào làng thơ “đã được người ta dành cho một chỗ ngồi yên ổn”3 . Xuân Diệu chính là nhà thơ tiêu biểu nhất của giai đoạn này.

Vào cuối giai đoạn xuất hiện sự phân hóa và hình thành một số khuynh hướng sáng tác khác nhau. Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng này được giải thích bằng sự khẳng định của cái Tôi. Cái Tôi mang màu sắc cá nhân đậm nét đã mang đến những phong cách nghệ thuật khác nhau cả về thi pháp lẫn tư duy nghệ thuật. Và khi cái Tôi rút đến sợi tơ cuối cùng thì cũng là lúc các nhà thơ mới đã chọn cho mình một cách thoát ly riêng.


3. Giai đoạn 1940-1945

Từ năm 1940 trở đi xuất hiện nhiều khuynh hướng, tiêu biểu là nhóm Dạ Đài gồm Vũ Hoàng Chương, Trần Dần, Đinh Hùng …; nhóm Xuân Thu Nhã Tập có Nguyễn Xuân Sanh, Đoàn Phú Tứ, Nguyễn Đỗ Cung …; nhóm Trường thơ Loạn có Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử,  Bích Khê,…

Có thể nói các khuynh hướng thoát ly ở giai đọan này đã chi phối sâu sắc cảm hứng thẩm mỹ và tư duy nghệ thuật trong sáng tác của các nhà thơ mới. Giai cấp tiểu tư sản thành thị và một bộ phận trí thức đã không giữ được tư tưởng độc lập đã tự phát chạy theo giai cấp tư sản. Với thân phận của người dân mất nước và bị chế độ xã hội thực dân o ép, họ như kẻ đứng ngã ba đường, sẵn sàng đón nhận những luồng gió khác nhau thổi tới. Bên cạnh đó, một bộ phận các nhà thơ mới mất phương hướng, rơi vào bế tắc, không lối thoát.


III. Những mặt tích cực, tiến bộ của Phong trào thơ mới

Đánh giá Phong trào thơ mới, nhà thơ Xuân Diệu nhận định “Thơ mới là một hiện tượng văn học đã có những đóng góp vào văn mạch của dân tộc”… “ Trong phần tốt của nó, Thơ mới có một lòng yêu đời, yêu thiên nhiên đất nước, yêu tiếng nói của dân tộc”. Nhà thơ Huy Cận cũng cho rằng “Dòng chủ lưu của Thơ mới vẫn là nhân bản chủ nghĩa”… “Các nhà thơ mới đều giàu lòng yêu nước, yêu quê hương đất nước Việt Nam. Đất nước và con người được tái hiện trong Thơ mới một cách đậm đà đằm thắm”.


1. Tinh thần dân tộc sâu sắc

Thơ mới luôn ấp ủ một tinh thần dân tộc, một lòng khao khát tự do. Ở thời kỳ đầu, tinh thần dân tộc ấy là tiếng vọng lại xa xôi của phong trào cách mạng từ 1925-1931 (mà chủ yếu là phong trào Duy Tân của Phan Bội Châu và cuộc khởi nghĩa Yên Bái). Nhà thơ Thế Lữ luôn mơ ước được “tung hoành hống hách những ngày xưa” (Nhớ rừng); Huy Thông thì khát khao:

“Muốn uống vào trong buồng phổi vô cùng

Tất cả ánh sáng dưới gầm trời lồng lộng”.

Tinh thần dân tộc của các nhà thơ mới gửi gắm vào lòng yêu tiếng Việt. Nghe tiếng ru của mẹ, nhà thơ Huy Cận cảm nhận được “hồn thiêng đất nước” trong từng câu ca:

“Nằm trong tiếng nói yêu thương

Nằm trong tiếng Việt vấn vương một đời”.

Có thể nói, các nhà thơ mới đã có nhiều đóng góp, làm cho tiếng Việt không ngày càng trong sáng và giàu có hơn.

Ở giai đoạn cuối, tinh thần dân tộc chỉ còn phảng phất với nỗi buồn đau của ngưòi nghệ sĩ không được tự do (Độc hành ca, Chiều mưa xứ Bắc của Trần Huyền Trân, Tống biệt hành, Can trường hành của Thâm Tâm) …


2. Tâm sự yêu nước thiết tha

Có thể nói, tinh thần dân tộc là một động lực tinh thần để giúp các nhà thơ mới ấp ủ lòng yêu nước. Quê hương đất nước thân thương đã trở thành cảm hứng trong nhiều bài thơ. Đó là hình ảnh Chùa Hương trong thơ Nguyễn Nhược Pháp (Em đi Chùa Hương); hình ảnh làng sơn cước vùng Hương Sơn Hà Tĩnh trong thơ Huy Cận (Đẹp xưa); hình ảnh làng chài nơi cửa biển quê hương trong thơ Tế Hanh (Quê hương) v.v… Các thi sĩ đã mang đến cho thơ cái hương vị đậm đà của làng quê, cái không khí mộc mạc quen thuộc của ca dao: Nguyễn Bính, Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân, Anh Thơ, … Hình ảnh thôn Đoài, thôn Đông, mái đình, gốc đa, bến nước, giậu mồng tơi, cổng làng nắng mai, mái nhà tranh đã gợi lên sắc màu quê hương bình dị, đáng yêu trong tâm hồn mỗi người Việt Nam yêu nước.

Bên cạnh những mặt tích cực và tiến bộ nói trên, Phong trào thơ mới còn bộc lộ một vài hạn chế. Một số khuynh hướng ở thời kỳ cuối rơi vào bế tắc, không tìm được lối ra, thậm chí thoát ly một cách tiêu cực. Điều đó đã tác động không tốt đến một bộ phận các nhà thơ mới trong quá trình “nhận đường” những năm đầu sau cách mạng tháng Tám.


IV. Đặc điểm nổi bật của Phong trào thơ mới

1. Sự khẳng định cái Tôi

Nền văn học trung đại trong khuôn khổ chế độ phong kiến chủ yếu là một nền văn học phi ngã. Sự cựa quậy, bứt phá tìm đến bản ngã đã ít nhiều xuất hiện trong thơ Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ,… Đến Phong trào thơ mới, cái Tôi ra đời đòi được giải phóng cá nhân, thoát khỏi luân lí lễ giáo phong kiến chính là sự tiếp nối và đề cao cái bản ngã đã được khẳng định trước đó. Đó là một sự lựa chọn khuynh hướng thẩm mỹ và tư duy nghệ thuật mới của các nhà thơ mới. 

Ý thức về cái Tôi đã đem đến một sự đa dạng phong phú trong cách biểu hiện. Cái Tôi với tư cách là một bản thể, một đối tượng nhận thức và phản ánh của thơ ca đã xuất hiện như một tất yếu văn học. Đó là con người cá tính, con người bản năng chứ không phải con người ý thức nghĩa vụ, giờ đây nó đàng hoàng bước ra “trình làng” (chữ dùng của Phan Khôi). Xuân Diệu, nhà thơ tiêu biểu của Phong trào thơ mới lên tiếng trước:

- “Tôi là con chim đến từ núi lạ …”, 

- “Tôi là con nai bị chiều đánh lưới”…

Có khi đại từ nhân xưng “tôi” chuyển thành “anh”:

“Anh nhớ tiếng, anh nhớ hình, anh nhớ ảnh

  Anh nhớ em, anh nhớ lắm em ơi!”

 Thoảng hoặc có khi lại là “Ta”:

“Ta là Một, là Riêng là Thứ Nhất

Không có chi bè bạn nổi cùng ta”.

 “Thơ mới là thơ của cái Tôi”. Thơ mới đề cao cái Tôi như một sự cố gắng cuối cùng để khẳng định bản ngã của mình và mong được đóng góp vào “văn mạch dân tộc”, mở đường cho sự phát triển của thi ca Việt Nam hiện đại.


2. Nỗi buồn cô đơn

Trong bài “Về cái buồn trong Thơ mới”, Hoài Chân cho rằng “Đúng là Thơ mới buồn, buồn nhiều”, “Cái buồn của Thơ mới không phải là cái buồn ủy mị, bạc nhược mà là cái buồn của những người có tâm huyết, đau buồn vì bị bế tắc chưa tìm thấy lối ra”. 

Cái Tôi trong Thơ mới trốn vào nhiều nẻo đường khác nhau, ở đâu cũng thấy buồn và cô đơn. Nỗi buồn cô đơn tràn ngập trong cảm thức về Tiếng thu với hình ảnh:

“Con nai vàng ngơ ngác

Đạp trên lá vàng khô”.

  (Lưu Trọng Lư ). 

Với Chế Lan Viên đó là “Nỗi buồn thương nhớ tiếc dân Hời” (tức dân Chàm):

               “Đường về thu trước xa xăm lắm

                 Mà kẻ đi về chỉ một tôi”

           Nghe một tiếng gà gáy bên sông, Lưu Trọng Lư cảm nhận được nỗi buồn “Xao xác gà trưa gáy não nùng” còn Xuân Diệu lại thấy “Tiếng gà gáy buồn nghe như máu ứa”. Về điều này, Hoài Chân cho rằng “Xuân Diệu phải là người buồn nhiều, đau buồn nhiều mới viết được những câu thơ nhức xương như: “Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối / Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm”.

Nỗi buồn cô đơn là cảm hứng của chủ nghĩa lãng mạn. Với các nhà thơ mới, nỗi buồn ấy còn là cách giải thoát tâm hồn, là niềm mong ước được trải lòng với đời và với chính mình.


3. Cảm hứng về thiên nhiên và tình yêu

Ngay từ khi ra đời, “Thơ mới đã đổi mới cảm xúc, đã tạo ra một cảm xúc mới trước cuộc đời và trước thiên nhiên, vũ trụ”. Cảm hứng về thiên nhiên và tình yêu đã tạo nên bộ mặt riêng cho Thơ mới. Đó là vẻ đẹp tươi mới, đầy hương sắc, âm thanh, tràn trề sự sống.

Đây là cảnh mưa xuân trong thơ Nguyễn Bính:

“Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay

Hoa xoan lớp lớp rụng rơi đầy”.

Và đây là hình ảnh buổi trưa hè:

“Buổi trưa hè nhè nhẹ trong ca dao

Có cu gáy và bướm vàng nữa chứ”

(Huy Cận). 

Trong thơ Chế Lan Viên có không ít những hình ảnh như:

“Bướm vàng nhè nhẹ bay ngang bóng

Những khóm tre cao rủ trước thành”

tất cả gợi lên hình ảnh quê hương bình dị, thân thuộc với mỗi người Việt Nam.

Những cung bậc của tình yêu đã làm thăng hoa cảm xúc các nhà thơ mới. “Ông hoàng của thơ tình” Xuân Diệu bộc bạch một cách hồn nhiên:

“Tôi khờ khạo lắm, ngu ngơ quá

Chỉ biết yêu thôi chẳng biết gì”.

 Chu Văn Sơn cho rằng “Xuân Diệu coi tình yêu như một tôn giáo” nhưng là một “thứ tôn giáo lãng mạn, tôn giáo nghệ sĩ”. 

Khác với Xuân Diệu, nhà thơ Chế Lan Viên cảm nhận thân phận bằng nỗi cô đơn sầu não:

   “Với tôi tất cả như vô nghĩa

   Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau”.

Cảm xúc ấy không phải là một ngoại lệ. Nhà thơ Huy Cận cho rằng “Cái đẹp bao giờ cũng buồn” (Kinh cầu tự) và cảm nhận được sự tận cùng của nỗi buồn cô đơn “sầu chi lắm, trời ơi, chiều tận thế”. Nhà thơ triết lý về điều này một cách sâu sắc:

“Chân hết đường thì lòng cũng hết yêu”.


4. Một số đặc sắc về nghệ thuật

Thơ mới là một bước phát triển quan trọng trong tiến trình hiện đại hóa nền văn học nước nhà những năm đầu thế kỉ XX với những cuộc cách tân nghệ thuật sâu sắc.

Về thể loại, ban đầu Thơ mới phá phách một cách phóng túng nhưng dần dần trở về với các thể thơ truyền thống quen thuộc như thơ ngũ ngôn, thất ngôn, thơ lục bát. Các bài thơ ngũ ngôn có Tiếng thu (Lưu Trọng Lư), Ông Đồ (Vũ Đình Liên), Em đi chùa Hương (Nguyễn Nhược Pháp)… Các nhà thơ Huy Cận, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, T.T.KH chủ yếu viết theo thể thơ thất ngôn, còn Nguyễn Bính, Thế Lữ lại dùng thể thơ lục bát v.v… 

Cách hiệp vần trong Thơ mới rất phong phú, ít sử dụng một vần (độc vận) mà dùng nhiều vần như trong thơ cổ phong trường thiên: vần ôm, vần lưng, vần chân, vần liên tiếp, vần gián cách hoặc không theo một trật tự nhất định:

“Tiếng địch thổi đâu đây

Cớ sao nghe réo rắt

Lơ lửng cao đưa tận chân trời xanh ngắt

Mây bay… gió quyến, mây bay

Tiếng vi cút như khoan như dìu dặt

Như hắt hiu cùng hơi gió heo may”

 (Thế Lữ).

Sự kết hợp giữa vần và thanh điệu tạo nên cho Thơ mới một nhạc điệu riêng. Đây là những câu thơ toàn thanh bằng:

“Sương nương theo trăng ngừng lưng trời

  Tương tư nâng lòng lên chơi vơi”

 (Xuân Diệu)

 hay

 “Ô hay! Buồn vương cây ngô đồng

 Vàng rơi! 

 Vàng rơi! 

 Thu mênh mông” 

 (Bích Khê)


(CÒN TIẾP)

Nguồn: Văn Chương Mạn Đàm

Thứ Bảy, 25 tháng 10, 2025

NHÀ PHÊ BÌNH CHU VĂN SƠN VÀ NHỮNG LỜI “TỰ TÌNH CÙNG CÁI ĐẸP”

 




NHÀ PHÊ BÌNH CHU VĂN SƠN VÀ NHỮNG LỜI “TỰ TÌNH CÙNG CÁI ĐẸP” ✨

⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯

Với nhà giáo, nhà phê bình văn học Chu Văn Sơn từ lâu luôn được mến mộ như một cây bút phê bình đầy sắc sảo. Ở TS Chu Văn Sơn, phong cách nghệ thuật luôn đa dạng mà thống nhất, với một giọng điệu riêng, một bút hồn độc đáo, hấp dẫn mà sâu sắc, có khả năng thuyết phục trái tim người đọc. Và ông quan niệm cái sống là cái đẹp, là tín niệm suốt đời của con người sắc sảo, tài hoa ấy. Vậy thì hãy cùng GAC điểm qua những quan niệm sâu sắc về văn chương nghệ thuật của nhà phê bình mà cả cuộc đời được xem như “hành trình đi tìm cái đẹp” này nhé!


1. 

“Văn chương cho con người sống nhiều cuộc đời khác, sống về phía khác của cuộc đời mình.”


2.

"Ngòi bút sắc làm đau trang giấy. 

Nét mực hoen làm đau con chữ gầy. 

Câu thơ suông làm tổn thương ánh đèn tri kỉ.”


3.

"Thế giới cần nâng niu quá đỗi. Ta sống đời lại thô tháp làm sao. Ta làm tổn thương những dòng sông. Ta làm tổn thương những mặt đầm. Ta làm tổn thương những mảnh vườn. Ta làm tổn thương những mùa hoa trái. Ta làm tổn thương những bình minh yên ả. Ta làm tổn thương những canh khuya trong vắng. Ta làm đau những niềm người quá đỗi mong manh.”


4.

"Mặt đất ngàn đời quen tha thứ. Đại dương bao la quen độ lượng. Cánh rừng mênh mông quen trầm mặc. Những dòng sông quen chảy xuôi. Những hồ đầm quen nín lặng. Những nẻo đường quen nhẫn nhịn. Những góc vườn quen che giấu. Những thảm rêu vốn không biết dỗi hờn. Những đóa hoa không bao giờ chì chiết. Những giấc mơ chỉ một mực bao dung. Những yêu thương không bao giờ trả đũa Và ta cứ yên chí đi qua thế giới này với bước chân quen xéo lên cỏ hoa. Thỉnh thoảng bàn chân nên bị gai đâm, để ta được giật mình: tổn thương là rỉ máu.”


5.

"Tôi cứ hình dung nghệ sĩ đích thực là một kẻ khát. Khát như một chứng bệnh, lại như một nhu cầu. Là rủi ro mà cũng là may mắn. Nó khiến anh không thể không đi tìm cho được nguồn nước của riêng mình. Vừa buộc anh thành nghệ sĩ vừa biến anh thành tù nhân trong một cuộc đày ải vô hình và dai dẳng. Biến đời nghệ thuật thành cuộc lưu đày. Nó khác nào như một thứ khổ giá tiền định mà tự nguyện. Nó mà thôi dày vò, anh liền bị cắt cơn sáng tạo. Khỏi phận tù đày, anh hết là nghệ sĩ. Khuôn mặt tinh thần và tầm vóc của anh tùy thuộc vào cơn khát ấy. Cơn khát có tên là Tuyệt đối."


6.

“Chừng nào tre còn xanh, sen còn ngát, chừng nào tà áo dài còn tha thướt, tiếng đàn bầu còn ngân nga, chừng ấy những điệu lục bát còn tiếp tục sinh sôi trên xứ sở này.”


7.

“Điểm tựa của muôn đời có thể là gì khác Nhân dân, dù có lúc người bị bỏ quên ngoài sử sách.”


®️ Nội dung & Hình ảnh: Đội ngũ GAC VĂN